Nhận diện và phản bác luận điệu xuyên tạc về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam

Thứ Bảy, ngày 11 tháng 10 năm 2025 - 11:14 Đã xem: 1327

Ngày 04/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết số 68-NQ/TW) với các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp đột phá, chưa từng có tiền lệ, định hình quan điểm mới của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta.

Nghị quyết số 68 -NQ/TW ra đời đã khẳng định KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế

1. Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị đánh dấu một bước ngoặt trong tư duy, nhận thức của Đảng về KTTN; với tinh thần xóa bỏ định kiến, Nghị quyết là lời khẳng định mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước về vai trò then chốt, động lực quan trọng hàng đầu của khu vực KTTN trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.  

Có thể khẳng định, Nghị quyết số 68-NQ/TW ra đời đã khẳng định KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, điều này không chỉ mang tính định hướng mà còn có ý nghĩa về mặt thể chế, khắc phục định kiến lịch sử lâu dài về KTTN trong những năm qua. Nghị quyết số 68-NQ/TW đã đưa nhiều giải pháp cụ thể giúp KTTN phát triển vươn mình để hòa nhập, đồng thời thể hiện đúng bản chất, quy luật của nền kinh tế thị trường. Đây là một thay đổi có tính đột phá về tư duy, từ chỗ coi KTTN là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế, thì đến nay trở thành một “động lực quan trọng nhất” của kinh tế quốc gia, là đầu tàu chiến lược thúc đẩy kinh tế, có vị trí, vai trò bình đẳng và ngang hàng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập sâu rộng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.  

Ngay sau khi Đảng ta ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW, các thế lực thù địch đã ra sức rêu rao, xuyên tạc rằng: Việc Đảng ta ban hành Nghị quyết khẳng định KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế là “thừa nhận sự bóc lột, thừa nhận mối quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN)”. Phát triển KTTN là sự thất bại của kinh tế thị trường định hướng XHCN, là dấu hiệu Việt Nam đang “chuyển đổi sang nền kinh tế tư bản dưới vỏ bọc xã hội chủ nghĩa”. Chúng cho rằng như vậy là “mâu thuẫn với quan điểm của Đảng trong các thời kỳ trước”, việc ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW là nhằm can thiệp vào kinh tế trái quy luật, làm cản trở phát triển kinh tế hoặc bóp méo thị trường nhằm trục lợi. Qua đó, các thế lực thù địch tìm cách phủ nhận thành quả của nền kinh tế thị trường định  hướng XHCN ở nước ta, gây tâm lý hoài nghi, dao động, phá hoại niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, từ đó, hòng kêu gọi thay đổi thể chế chính trị ở nước ta.     

2. Sinh thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng chỉ ra rằng chế độ sở hữu tư nhân là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng xã hội và sự tha hóa con người, sở hữu tư nhân dẫn đến “sự cạnh tranh, khủng hoảng kinh tế và cuối cùng là tập trung tư bản, làm gia tăng bất công xã hội”. Tuy nhiên, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng khẳng định, trong một số giai đoạn lịch sử, KTTN có thể thúc đẩy sản xuất và phát triển lực lượng lao động, tạo tiền đề cho sự phát triển và tiến bộ xã hội. V.I.Lênin cũng khẳng định, KTTN là một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Người nhấn mạnh: Chính sách ngăn cấm hoàn toàn trao đổi tư nhân là một sự dại dột và tự sát. Chính sách kinh tế mới - NEP (1921) đã cho phép các doanh nghiệp nhỏ và thương mại tự do hoạt động để phục hồi nền kinh tế Nga sau chiến tranh. Đây được xem là bước đi chiến lược nhằm khai thác tiềm năng của KTTN để phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời định hướng khu vực này theo con đường XHCN.  

Hiện nay, khu vực này đóng góp khoảng 51% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước và tạo ra hơn 40 triệu việc làm, cho thấy vai trò không thể thay thế của KTTN.

Kế thừa quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về KTTN, trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước ta, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định vị trí, tầm quan trọng của KTTN đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Văn kiện Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã khẳng định: “Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế,... Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch,...”, “sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế XHCN”. Văn kiện các kỳ Đại hội sau này của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của KTTN đối với nền kinh tế ở nước ta, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “KTTN được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn KTTN mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động[1]”; Điều 51, Hiến pháp năm 2013 cũng nhấn mạnh: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,… Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”. Đặc biệt, trong bài viết “Phát triển KTTN - đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng” mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định, KTTN không chỉ là một thành phần của nền kinh tế mà còn là động lực hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới sáng tạo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và ứng dụng công nghệ cao; yêu cầu xóa bỏ mọi rào cản, định kiến đối với kinh tế tư nhân; xây dựng các chính sách hỗ trợ toàn diện như cải thiện môi trường pháp lý, phát triển hạ tầng hiện đại và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện nay, khu vực này đóng góp khoảng 51% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước và tạo ra hơn 40 triệu việc làm, cho thấy vai trò không thể thay thế của KTTN. Tổng Bí thư nhấn mạnh: Trong những năm tới, KTTN phải là lực lượng tiên phong thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, có trách nhiệm xã hội, góp phần nâng cao đời sống Nhân dân, tham gia xây dựng xã hội văn minh, hiện đại, góp phần xây dựng một Việt Nam năng động và hội nhập quốc tế. Đây là minh chứng rõ ràng cho sự nhất quán trong đường lối của Đảng nhằm phát triển KTTN trở thành “một động lực quan trọng” thúc đẩy tăng trưởng bền vững và nâng cao đời sống Nhân dân; việc phát triển KTTN là sự vận dụng sáng tạo để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, điều này không chỉ phù hợp với lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển, mà còn nhất quán với đường lối đổi mới của Đảng, với con đường đi lên CNXH mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân đã lựa chọn; điều này hoàn toàn không hề mâu thuẫn với quan điểm của Đảng trong các thời kỳ trước như các thế lực thù địch rêu rao, xuyên tạc.   

Dưới sự lãnh đạo, quản lý, điều hành đúng đắn của Đảng, Nhà nước, sau gần 40 năm thực hiện đường lối Đổi mới, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, kém hiệu quả, với thu nhập bình quân đầu người khoảng 96 USD vào năm 1989, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, dự kiến năm 2025 vào nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình cao, tương đương mức trên 5.000 USD/người/năm, đạt được tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 6,37%/năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn cao gấp đôi mức trung bình của các quốc gia đang phát triển, bất chấp những biến động kinh tế toàn cầu. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 24 thế giới tính theo sức mua tương đương (PPP), là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất khu vực Đông Nam Á, đồng thời từng bước khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Sự phát triển này có đóng góp rất to lớn của khu vực KTTN, với hơn 940.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động, 5 triệu hộ kinh doanh cá thể và hàng chục triệu lao động, khu vực này đã đóng góp khoảng 50% GDP, 30% thu ngân sách và hơn 80% việc làm cho toàn xã hội. Không chỉ đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, mà KTTN đóng góp rất to lớn vào xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, cải thiện mức sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.        

Dựa trên lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam, chúng ta có quyền khẳng định rằng, chủ trương phát triển KTTN không phải là từ bỏ mục tiêu CNXH mà ngược lại là sử dụng chính KTTN để tạo động lực phát triển, rút ngắn chặng đường ở thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ, trong thời kỳ quá độ cần thiết phải sử dụng các thành phần kinh tế phi XHCN cho mục đích xây dựng CNXH. Thực tiễn quá trình xây dựng CNXH ở nước Nga Xô viết đã chứng minh rằng, trong thời kỳ quá độ, chính quyền Xô Viết đã sử dụng cả thành phần kinh tế phi XHCN như tư bản nhà nước, tư bản tư nhân cho mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất, coi đó là biện pháp tối ưu để giải phóng sức sản xuất, tăng năng suất lao động. Ở nước ta, Đảng, Nhà nước ta thừa nhận KTTN, coi đây là động lực phát triển song không đồng nghĩa với xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất TBCN. Để KTTN phát triển lành mạnh, là động lực của nền kinh tế, nó phải được quản lý, vận hành theo định hướng XHCN, nghĩa là được tự do cạnh tranh bình đẳng trong khuôn khổ cơ chế kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều tiết của Nhà nước chứ không phải là dấu hiệu Việt Nam đang “chuyển đổi sang nền kinh tế tư bản dưới vỏ bọc XHCN” như nhiều luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc. Thừa nhận KTTN không có nghĩa là chúng ta thừa nhận bóc lột và tạo điều kiện cho quan hệ bóc lột được hiện diện trong các quan hệ kinh tế ở nước ta. Trong nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; KTTN là một động lực quan trọng; thành phần kinh tế nhà nước nắm giữ nguồn lực vật chất quan trọng, then chốt là công cụ, lực lượng vật chất để nhà nước ổn định vĩ mô, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường, trong đó có xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công chứ không phải là “thừa nhận sự bóc lột, thừa nhận mối quan hệ sản xuất TBCN” như nhiều người rêu rao, xuyên tạc.     

Nghị quyết số 68-NQ/TW đưa ra các giải pháp cụ thể để bảo đảm doanh nghiệp tư nhân tiếp cận công bằng các nguồn lực phát triển

3. Mặc dù có sự đóng góp to lớn vào sự phát triển chung của đất nước, tuy nhiên, trong những năm trước đây, KTTN vẫn bị đặt trong tư thế “thứ yếu”, thiếu sự bình đẳng thực sự về cơ hội tiếp cận nguồn lực, thông tin, đất đai, tín dụng; phải đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của nền kinh tế đất nước. Vẫn còn tình trạng chưa nhất quán giữa chủ trương, chính sách đã ảnh hưởng nhiều đến tâm lý và niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp. Đa số doanh nghiệp tư nhân vẫn ở quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa với tiềm lực tài chính và trình độ quản trị còn hạn chế. Năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp, dẫn đến năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao. Bên cạnh đó, tư duy kinh doanh còn thiếu tầm nhìn chiến lược, sự kết nối với doanh nghiệp nhà nước cũng như doanh nghiệp FDI còn lỏng lẻo. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, nhưng chủ yếu là do tư duy, nhận thức về vị trí, vai trò của KTTN trong nền kinh tế còn chưa đầy đủ, chưa theo kịp yêu cầu phát triển; thể chế, pháp luật còn vướng mắc, bất cập; quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh chưa được bảo đảm đầy đủ. KTTN còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong tiếp cận nguồn lực, đặc biệt là vốn, công nghệ, đất đai, tài nguyên và nhân lực chất lượng cao. Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả và khó tiếp cận; chi phí kinh doanh còn cao.

Có thể khẳng định rằng, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW được xem là một bước ngoặt trong tư duy phát triển, khi không chỉ khẳng định vị thế và vai trò then chốt của KTTN mà còn cam kết cải thiện môi trường thể chế, gỡ bỏ rào cản, tạo điều kiện để khu vực này bứt phá trong giai đoạn mới; góp phần quan trọng trong định hình tương lai của nền kinh tế Việt Nam, góp phần quan trọng hiện thực hóa mục tiêu mà Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra là: Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.  

Những năm tới, nhân loại tiếp tục chứng kiến những chuyển biến sâu sắc trên phạm vi toàn cầu về địa chính trị, địa kinh tế, cạnh tranh chiến lược… cùng với những thách thức về biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, an ninh truyền thống và phi truyền thống. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự quản lý, điều hành của Chính phủ, Nghị quyết số 68-NQ/TW cùng với 03 nghị quyết khác của Bộ Chính trị trở thành “Bộ tứ trụ cột[2] giúp đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển, thịnh vượng, hùng cường của dân tộc; kiến tạo một Việt Nam thịnh vượng, năng động và ngày một vươn xa trên trường quốc tế./.  

Nguyễn Thanh Bình/baocaovien.vn

Xem tin theo ngày:   / /