Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Thứ Hai, ngày 9 tháng 1 năm 2023 - 21:52 Đã xem: 5963

Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW (ngày 17/11/2022) về “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Một trong những giải pháp được đưa ra để tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời gian tới là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là một định hướng quan trọng, đúng đắn nhằm tháo gỡ một trong những điểm nghẽn quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.

Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát nhanh, bền vững đất nước_Ảnh: Vietnam+

THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Hiện nay, lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng gần 55 nghìn người; hằng năm, trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể lực và tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao, tuy nhiên so với các nước trong khu vực (Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Trung Quốc,..) nói chung thấp hơn cả về chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo dai.

Thời gian qua, chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam cũng có sự cải thiện đáng kể. Theo Ngân hàng Thế giới, chỉ số vốn nhân lực (HCI) của Việt Nam đã tăng từ 0,66 lên 0,69 trong 10 năm 2010 - 2020. Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tiếp tục cao hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập mặc dù mức chi tiêu công cho y tế, giáo dục và bảo trợ xã hội thấp hơn. Việt Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương có điểm cao nhất về chỉ số vốn nhân lực.

Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Việt Nam từ 40% năm 2010 lên 65% năm 2020, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc đã qua đào tạo liên tục tăng lên qua các năm, từ 15,4% vào năm 2011 đã tăng lên 24,1% vào năm 2021(1). Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo không ngừng tăng lên làm cho chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam không ngừng được cải thiện. Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã được thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng lượng, y tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh doanh, từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở Việt Nam còn khá lớn, chất lượng đào tạo thấp, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý. Hiện nay, nước ta đang thiếu công nhân có kỹ năng lao động cao, thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực, nhưng thừa lao động thủ công, không qua đào tạo. Trong khi đó, cạnh tranh quốc tế bằng lao động phổ thông, giá nhân công rẻ cho thấy không mang lại hiệu quả cao. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng cao đang trở thành trở ngại lớn cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, thời kỳ dân số vàng sẽ kéo dài trong khoảng 34 năm và kết thúc vào năm 2041. Như vậy, chúng ta đã trải qua hơn 10 năm trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, nhưng thực tế cho thấy giá trị thặng dư, hiệu suất kinh tế chưa tương xứng với số lượng lao động hiện có của cả nước. Điều này thể hiện rõ ở việc so sánh năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực. Năng suất lao động của Việt Nam năm 2020, theo ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), thấp hơn 7 lần so với Malaysia; 4 lần so với Trung Quốc; 3 lần so với Thái Lan; 2 lần so với Philippines và 26 lần so với Singapore. Báo cáo 2020 của Tổ chức Năng suất châu Á (APO) cũng cho thấy, năng suất lao động Việt Nam tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm.

Chất lượng nguồn nhân lực thấp là một trong những thách thức rất lớn của Việt Nam trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo kết quả của một nghiên cứu mới đây, “trong 2 thập kỷ tới, khoảng 56% số người lao động tại 5 quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có nguy cơ mất việc vì robot, đặc biệt là trong ngành may mặc. Ngoài ra, sự phát triển của kinh tế số sẽ làm mất đi một số lượng lớn công việc, thay thế tới 1/3 lực lượng lao động chế biến nông sản, thay thế 26% số lao động trong ngành logistics ở Việt Nam”(2).

Trong những năm tới, chuyển đổi số là xu hướng tất yếu của Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới nhưng để phát triển được nền kinh tế số, Việt Nam phải vượt qua một số thách thức, trong đó có thách thức về nguồn nhân lực. Kinh tế số phát triển đòi hỏi phải có nguồn nhân lực số để triển khai, tổ chức thực hiện và vận hành nền kinh tế một cách hiệu quả. Kinh tế số phát triển sẽ dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ về lao động, quá trình chuyển đổi số sẽ vừa làm mất việc làm nhưng cũng sẽ tạo ra việc làm mới. Theo dự báo của các chuyên gia của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), đến năm 2025 máy móc và con người sẽ có thời gian làm việc tương đương, máy móc sẽ thay thế vị trí của con người khiến cho 85 triệu việc làm có thể bị mất đi. Tuy nhiên, bên cạnh đó lại có những việc làm mới được tạo ra trong những ngành cần sự bổ trợ tương hỗ giữa công nghệ hiện đại và lao động có tay nghề. Kinh tế số sẽ làm thay đổi lớn về cơ cấu lao động và thị trường lao động. Sự phát triển của khoa học công nghệ sẽ gây ra sự bất ổn thị trường lao động, làm gia tăng nỗi lo mất việc do tự động hóa và Việt Nam cùng các nước trong khu vực có thể mất đi lợi thế so sánh dựa trên chi phí lao động thấp. Kinh tế số mang lại những cơ hội phát triển lớn, nhưng người lao động cần phải được chuẩn bị những kỹ năng và năng lực phù hợp với nhu cầu công việc trong tương lai.

Lễ ký kết hợp tác toàn diện cho chương trình liên kết giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, tay nghề cao. (Ảnh: VKBIA)

Sự phát triển của kinh tế số theo một xu hướng không thể đảo ngược đã cho thấy sự khác biệt của xu hướng phát triển kinh tế trước đây so với giai đoạn hiện nay. Trong những giai đoạn trước đây, do lực lượng sản xuất còn thấp, sự phát triển, tăng trưởng chủ yếu dựa trên việc khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên. Khi tài nguyên thiên nhiên đang cạn kiệt dần, đặc biệt dưới tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quốc gia nào có nguồn nhân lực tốt hơn sẽ phát triển nhanh, bền vững hơn. Xu hướng chung của nền kinh tế thế giới trong thời gian gần đây là sự tăng trưởng kinh tế hiện nay đang giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, mở rộng tín dụng; từng bước dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn kết chặt chẽ với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ được cho là yếu tố quyết định để thực hiện hai khâu đột phá còn lại là hoàn thiện thể chế kinh tế và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ. Thực hiện tốt khâu đột phá này sẽ làm tăng tiềm lực và sức mạnh của đất nước, tạo lợi thế cạnh tranh, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, quyết định đến thành công của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.

PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC QUỐC GIA PHÙ HỢP VỚI YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng của nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn hiện nay và nhận thức đúng về xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới trong những năm tiếp theo, tại Đại hội XIII, Đảng ta vẫn tiếp tục kế thừa quan điểm của Đại hội XI, XII khi xác định phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá chiến lược để từng bước phá vỡ những điểm nghẽn của sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định trong 5 năm tới, đột phá về phát triển nguồn nhân lực, trong đó, nội hàm về nguồn nhân lực chất lượng cao đã được xác định rõ hơn, đó là “nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt” và đặc biệt, Đảng ta tiếp tục gắn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với “ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo”. Đây là những bổ sung kịp thời, hợp lý gắn với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Kế thừa tinh thần đó, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII (tháng 10/2022), Đảng ta đã xác định việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một giải pháp cần thiết, không thể thiếu của việc tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Với phương châm “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Nghị quyết số 29-NQ/TW (ngày 17/11/2022) về “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã nêu rõ một quan điểm chỉ đạo quan trọng. Đó là: “Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả; khơi dậy khát vọng phát triển, tinh thần khởi nghiệp quốc gia, đổi mới sáng tạo; phát huy giá trị tinh hoa văn hoá dân tộc, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam và truyền thống của giai cấp công nhân, vai trò xung kích, đi đầu của đội ngũ trí thức và doanh nhân Việt Nam”(3). Trong quan điểm trên, có thể thấy rõ quan điểm chỉ đạo của Đảng về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam với phát huy bản lĩnh, trí tuệ của con người Việt Nam - nhất là truyền thống của giai cấp công nhân, vai trò xung kích, đi đầu của đội ngũ trí thức và tầng lớp doanh nhân nước ta. Đây chính là lực lượng nòng cốt của nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.

Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam thời gian tới, cần chú trọng vào một số nội dung trọng tâm như sau:

Một là, rà soát, hoàn thiện các chiến lược về giáo dục, đào tạo, phát triển nhân lực quốc gia phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cho đến nay, nước ta cũng đã có khá nhiều quy định, nghị định về phát triển giáo dục, đào tạo cũng như phát triển nguồn nhân lực nhưng so với yêu cầu của việc tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, nhiều quy định đã lạc hậu, không còn phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Do đó, cần rà soát lại các quy định đã có, kịp thời ban hành những quy định mới để tạo ra những bước đột phá về giáo dục, đào tạo, từng bước tháo gỡ những điểm nghẽn về chất lượng nguồn nhân lực quốc gia hiện nay.

Hai là, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học thuộc lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ; triển khai các hoạt động đào tạo kiến thức, kỹ năng về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các trường phổ thông. Hiện nay, mạng lưới giáo dục nghề nghiệp ở nước ta đã trở nên lạc hậu, nặng giáo dục lý thuyết, xem nhẹ thực hành, nặng về kiến thức, xem nhẹ kỹ năng; tỉ lệ giữa các ngành khoa học xã hội, nhân văn với các ngành kinh tế, kỹ thuật chưa thật sự hợp lý. Dó đó, cần phải tiến hành quy hoạch lại một cách tổng thể mạng lưới giáo dục nghề nghiệp ở cả ba cấp trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học; gia tăng các ngành thuộc lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ. Ngoài ra, cần triển khai từ sớm việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho học sinh bậc học phổ thông về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo để thúc đẩy hoạt động hướng nghiệp với các ngành nghề mà xã hội đang thực sự cần.

Ba là, hình thành các chương trình cấp quốc gia và cấp địa phương, ngành, lĩnh vực về đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, lao động có kỹ năng, chuyên môn cao. Để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, các cấp, ngành, địa phương cần căn cứ vào thực lực của mình để có chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài hợp lý; tránh tình trạng “chảy máu chất xám”. Ngoài ra, cần xây dựng các chương trình cấp quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài để bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút nguồn nhân lực đã được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc. Chú trọng đến các chính sách phân bổ nguồn lực chất lượng cao cho các vùng, miền, địa phương có điều kiện khó khăn để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền.

Bốn là, xây dựng và triển khai chương trình đào tạo chuyên gia, nhân lực chất lượng cao, lao động kỹ thuật trong các lĩnh vực công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn. Do trình độ phát triển của các ngành nghề ở nước ta có sự chênh lệch đáng kể nên không thể tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách cào bằng mà phải có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên cho các lĩnh vực sản xuất có tính nền tảng, mũi nhọn. Vì thế, cần phải đẩy mạnh các chương trình, chiến lược xây dựng và phát triển đội ngũ chuyên gia, nhân lực chất lượng cao trong các ngành nghề đó để tạo nên những bước đột phá về chất lượng. Đây là lực lượng nhân lực đầu tàu, có khả năng dẫn dắt, đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn cho lực lượng lao động có trình độ thấp hơn có khả năng tiếp cận được máy móc, khoa học - công nghệ và trình độ quản lý hiện đại, tiên tiến.

Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII đã nhấn mạnh “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị”. Đây được coi là một chiến lược quan trọng để Việt Nam có thể từng bước hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong thời gian tới. Một trong những giải pháp quan trọng được xác định để tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao vì đây vừa là chủ thể, vừa là động lực, song, cũng đồng thời là mục tiêu của mọi chiến lược phát triển đất nước.

Năm là, quan tâm đào tạo, nâng cao trình độ lao động nông thôn; tăng số lượng lao động kỹ thuật có tay nghề; phát triển nhân lực nghiên cứu, chuyên gia trong nông nghiệp. Vì lực lượng lao động nông nghiệp ở Việt Nam chiếm tỉ lệ khá cao nên để tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không thể không tính tới nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn. Do đó, thời gian tới, cần chú trọng đến việc nâng cao trình độ, tay nghề cho lao động nông thôn, tăng cường đội ngũ chuyên gia, kỹ sư nông nghiệp.

Sáu là, khuyến khích phát triển các nền tảng dạy và học trực tuyến mở, các mô hình đại học mới thích ứng với quá trình chuyển đổi số. Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số quốc gia, các nền tảng dạy và học trực tuyến cũng cần được mở rộng để tạo thêm nhiều cơ hội tiếp cận kiến thức cho người lao động. Ngoài ra, các cơ sở giáo dục, nhất là các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp cần đẩy mạnh hình thức giáo dục từ xa, giáo dục trực tuyến để người lao động có nhiều cơ hội học tập nâng cao trình độ, tay nghề./.

Theo TS. Lê Thị Chiên, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; TS. Thành Thu Trang, Học viện Chính trị Khu vực I/tuyengiao.vn

------------------- 

(1) Lê Nam Sơn: Những thành tựu không thể phủ nhận trong phát triển con người Việt Nam giai đoạn 2011-2021, Tạp chí Công thương, số 2/2022, tr.21

(2) Phạm Xuân Nam: Thách thức của lao động Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, số 8/2021, tr.32

(3) Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2022, tr.278.

 

CÁC TIN ĐÃ ĐĂNG

Tổng số: 292 | Trang: 1 trên tổng số 30 trang  
Xem tin theo ngày:   / /