Tuyên Quang - Nơi tổ chức Đại hội II của Đảng

Thứ Sáu, ngày 10 tháng 2 năm 2023 - 15:12 Đã xem: 2297

Qua 93 năm hoạt động, kể từ ngày thành lập đến nay (1930 - 2023), Đảng ta đã trải qua 13 kỳ Đại hội, trong đó Đại hội II tổ chức tại xã Vinh Quang (nay là xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa) vào tháng 02-1951 có ý nghĩa lịch sử đặc biệt quan trọng. Đây là Đại hội đầu tiên của Đảng được tổ chức trong nước, là Đại hội duy nhất tổ chức ngoài Thủ đô Hà Nội, Đại hội đánh dấu bước ngoặt quan trọng để đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.

Quang cảnh Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng. Ảnh tư liệu

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong tình thế thù trong giặc ngoài hết sức phức tạp, cân nhắc từng bước đi để đảm bảo an toàn và phát triển, ngày 11-11-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán (thực chất là rút vào hoạt động bí mật dưới tên gọi: Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương). Mọi hoạt động công khai của Đảng từ đó đều thông qua Mặt trận Việt Minh. Vì vậy, việc tuyên truyền đường lối của Đảng tới các tổ chức quần chúng Nhân dân gặp những trở ngại lớn.

Từ năm 1950 trở đi, tình hình cách mạng trong nước cũng như trên thế giới đã có nhiều thay đổi. Trên trường quốc tế, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ: Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã được củng cố và tăng cường về mọi mặt; phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển. Về phía thực dân, đế quốc, Mỹ đã quyết định tăng cường viện trợ cho Pháp và quân đội bù nhìn tại chiến trường Đông Dương. Tại Việt Nam, qua hơn 5 năm chiến đấu, đặc biệt từ sau chiến thắng Biên giới (1950) cách mạng có bước phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới lại có những yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng ta phải giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách để đưa cách mạng tiến lên. 

Trong bối cảnh đó, từ ngày 11 đến ngày 19-02-1951 Đảng Cộng sản Đông Dương đã triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II tại xã Vinh Quang (nay là xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang). Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho trên 76 vạn đảng viên đang sinh hoạt trong các tổ chức đảng ở Việt - Miên - Lào. Đến dự Đại hội còn có đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Xiêm (Thái Lan).

Trong mười ngày làm việc, Đại hội đã nghiên cứu, thảo luận kỹ các báo cáo trình trước Đại hội: Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Luận cương cách mạng Việt Nam của Tổng Bí thư Trường Chinh, Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng của đồng chí Lê Văn Lương, cùng nhiều báo cáo bổ sung về Mặt trận dân tộc thống nhất, chính quyền dân chủ nhân dân, Quân đội nhân dân, kinh tế - tài chính và về văn hóa, văn nghệ...

Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày đã khẳng định những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam trong 21 năm qua, kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng và những bài học kinh nghiệm qua các thời kỳ vận động cách mạng của Đảng, vạch ra những phương hướng, nhiệm vụ đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Báo cáo khẳng định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài vì độc lập thống nhất, dân chủ của Đảng là đúng đắn, cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ nhất định thắng lợi. Báo cáo nêu hai nhiệm vụ chính của Đảng lúc này là: (1) Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn; (2) Tổ chức Đảng Lao động Việt Nam. Về tổ chức Đảng, Báo cáo khẳng định: Phải có một Đảng công khai, tổ chức hợp với tình hình thế giới và tình hình trong nước để lãnh đạo toàn dân đấu tranh cho đến thắng lợi, Đảng đó lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.

Trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn của 21 năm lãnh đạo cách mạng nước ta, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới, trong Báo cáo Luận cương cách mạng Việt Nam do đồng chí Trường Chinh trình bày trước Đại hội phân tích một cách hệ thống và sâu sắc toàn bộ đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về các chính sách của Đảng và về Đảng Lao động Việt Nam. Báo cáo phân tích xã hội Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nêu rõ xã hội Việt Nam chứa chất nhiều mâu thuẫn, trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc và tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Mâu thuẫn chính là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc xâm lược và tay sai. Do đó, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, trừ diệt bọn phản quốc, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất, xóa bỏ tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ phản đế và phản phong có mối quan hệ khăng khít, nhưng trọng tâm của cách mạng giai đoạn hiện tại là giải phóng dân tộc.

Trên cơ sở nhiệm vụ cách mạng, thái độ chính trị của các giai cấp trong xã hội, Báo cáo Luận cương cách mạng Việt Nam chỉ rõ: Lực lượng cách mạng Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và giai cấp tư sản dân tộc. Động lực của cách mạng Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và giai cấp tư sản, chủ yếu là công nhân và nông dân. Lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân. Cuộc cách mạng nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến do nhân dân tiến hành, trong đó, công - nông là động lực chủ yếu và do giai cấp công nhân lãnh đạo gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Căn cứ vào tình hình thế giới và tình hình trong nước, căn cứ vào nhiệm vụ và tính chất của cách mạng nước ta, bản Luận cương cách mạng Việt Nam nêu ra 14 chính sách cụ thể của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đồng thời, đã bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển lý luận của Đảng ta về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến hành trong điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong kiến, trong thời đại mới quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội, ở một dân tộc có truyền thống kiến cường, bất khuất hàng nghìn năm chống xâm lược. Nó là kim chỉ nam cho những chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ, và là phương hướng phấn đấu cho toàn Đảng, toàn dân ta đưa sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Đại hội đã quyết nghị đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam, thông qua Chính cương, Tuyên ngôn và Điều lệ mới của Đảng. Quyết định sẽ thành lập những tổ chức cách mạng phù hợp hoàn cảnh Lào và Campuchia. Đảng Lao động Việt Nam có nghĩa vụ giúp đỡ các tổ chức cách mạng Lào và Campuchia lãnh đạo kháng chiến của hai dân tộc ấy giành thắng lợi cuối cùng.

Đại hội bầu  Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành đã cử ra Bộ Chính trị gồm 7 ủy viên chính thức và một ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch Đảng. Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của Đảng và cách mạng Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu trước mắt lâu dài của cuộc kháng chiến, đồng thời chuẩn bị mọi điều kiện để đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn. Với đường lối cách mạng đúng đắn, khoa học, phù với với thực tiễn cách mạng Việt Nam được đề ra tại Đại hội, cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mà đỉnh cao là chiến thắng vĩ đại Ðiện Biên Phủ chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo tiền đề vững chắc để tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Cùng với Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, trong những năm 1951-1952 tại Tuyên Quang đã diễn ra nhiều hội nghị quan trọng của Trung ương Đảng: Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt (3-3-1951); Đại hội Anh hùng, chiến sỹ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ I (5-5-1952); Hội nghị đấu tranh kinh tế với địch; Hội nghị kháng chiến hành chính toàn quốc; Hội nghị về công tác tài chính toàn quốc... Vinh dự và tự hào là Thủ đô kháng chiến, địa phương được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn để tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II và và nhiều hội nghị quan trọng khác của Đảng, Đảng bộ và Nhân nhân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang đã vinh dự được đóng góp sức người, sức của vào thành công của Đại hội. Nhân dân trong tỉnh đã huy động 7.000 công chuyên môn, 1 vạn dân công, trên 100 cây mí, 1 vạn cây mai, 10 vạn cây nứa, 8 vạn lá cọ, 5.000 thước vuông gỗ xẻ; đào đắp trên 3.000 thước khối đất, đá để làm nền nhà, làm đường, đào hầm tránh máy bay và chuẩn bị đủ lương thực, thực phẩm cho Đại hội. Cùng với việc đảm bảo cơ sở vật chất, Nhân dân và lực lượng vũ trang Tuyên Quang đã bố trí hàng nghìn dân quân du kích có vũ trang ngày đêm tuần tra, canh gác những tuyến đường trọng yếu, băng rừng, đưa đón cán bộ, đại biểu đến dự Đại hội, chuyển công văn, tài liệu mật đến nơi an toàn, góp phần vào thắng lợi chung của toàn dân tộc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, xuất bản năm 2000.

2- Kỷ yếu Đại hội II của Đảng tại Tuyên Quang - Thủ đô kháng chiến, Nxb chính trị quốc gia, năm 2011.

Nguyễn Văn Đức

Xem tin theo ngày:   / /