Tam Cờ - Phố của đền đài miếu mạo

Chủ nhật, ngày 7 tháng 3 năm 2021 - 13:23 Đã xem: 4980

Phố Tam Cờ có tên từ cuối đời nhà Lê, đó là tên của một ngã ba nơi con sông Lô và sông Gầm hoặc là Gâm gặp nhau, để hòa thành một dòng Lô chảy xuôi về thị xã. Tên của ngã ba hai con sông Lô - Gâm gặp nhau ở cửa sông ấy, viết bằng chữ Hán, dịch là Ba Chẽ, hoặc là Tam Kỳ hay Tam Cờ. Đến đầu nhà Nguyễn, Tam Cờ được đặt tên cho phố, có lúc nó được đặt tên cho cả cái thị xã nhỏ vùng sơn cước này.

Đền Mẫu Tam Cờ (Đền Hạ Tuyên Quang). Ảnh: Nguồn Internet

Phố Tam Cờ trong bài viết này được tính từ năm 1955 trở về trước, vì sau năm 1955, Tam Cờ tách ra làm hai phố; phố dưới tính từ cầu Chả trở lên đến đầu Nhà Đoan (đầu Mậu dịch) vốn là phố dưới giữ nguyên tên là Tam Cờ; phố trên tính từ đầu Nhà Đoan đến đầu phố Xuân Hòa, chỗ ngã ba Quảng Tường gọi là phố Quang Trung.

Phố Tam Cờ cũ từ Cầu Chả lên đến ngã ba Quảng Tường, người ta đã thấy có 7 nơi có đền đài, miếu mạo, làm cho phố trở thành một khu phố cổ kính, sầm uất nhất thị xã thời xưa vắng.

Đền Thiềm Cung:

Qua Cầu Chả chừng mươi lăm thước, rẽ phải theo đường ra bến Gốc Sung ở bờ sông Lô, tới đầu xóm Tân Long, xóm chuyên trồng rau của phố Tam Cờ ta sẽ được nghe người già ở đây kể lại, xưa đất này có một ngôi đền nguy nga lắm, có đầy đủ bia đá và sắc phong từ các triều đại trước sắc cho thờ cúng. Đền đó có tên là Thiềm Cung, đền thờ Công chúa Quế Hoa con gái của Vua Hùng Định Vương, tên húy là Hùng Định thuộc đời Hùng Vương thứ 8. Đền đã bị phá từ thời kháng chiến chống Pháp, nhưng Sắc phong của vua Khải Định cấp cho đền Thiềm Cung vào năm thứ 9 (1924) còn đó, sắc viết rằng:

“Sắc Tuyên Quang tỉnh, Yên Sơn huyện, Tam Kỳ phố phụng sự Quế Hoa công chúa, hiển linh tôn thần, hộ quốc tý dân, nhẫm trứ linh ứng, Tứ kim chính trực, Trẫm tứ câu đại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, trứ phong vị trang huy dực bảo trung hưng, thượng đẳng thần, chuẩn kỳ phụng sự thần, kỳ tướng hựu bảo ngã lê dân khâm tai”.

Dịch nghĩa:

“Sắc ban cho phố Tam Kỳ, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang phụng sự Quế Hoa công chúa, là vị thần linh thiêng, giúp nước trợ dân, tỏ rõ linh ứng. Nay nhân ngày đại khánh tiết, trẫm ban chiếu báu, vào ngày lễ long đăng trật sắc phong cho thần là “Trang huy - Dực bảo trang hưng - Thượng đẳng thần. Vẫn theo lệ trước cho phép được phụng thờ như cũ. Thần sẽ giúp đỡ và che chở cho muôn dân của ta”.

Chính sử ghi lại rằng, năm 1884, khi giặc Pháp đánh lên Tuyên Quang, liên quân Thanh - Việt do Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy đã kiến nghị với triều đình nhà Nguyễn cho tiêu thổ kháng chiến, không cho giặc Pháp có chỗ trú quân. Quan trấn thủ Tuyên Quang đã ra lệnh cho dân trong tỉnh lỵ phá bỏ nhà đi lánh nạn, dân ở quanh lỵ sở Tuyên Quang bỏ chạy đi nhiều nơi, có nhà chạy lên Hàm Yên, Vĩnh Tuy, có nhà chạy lên Hà Giang... rồi ở hẳn đó không về nữa. Nhà dân bị phá nhưng ngôi đền Thiềm Cung này không bị phá bỏ. Khi Pháp vào được Tuyên Quang tuy bị trả giá rất đắt, song họ cũng không dám phá ngôi đền thờ Mẫu Quế Hoa công chúa này.

Năm 1947, chuẩn bị cho chiến dịch Thu - Đông, để ngăn chặn đường tiến quân của quân đội Pháp vào khu căn cứ địa cách mạng, theo lệnh tiêu thổ kháng chiến tự vệ thành Tuyên Quang đã phá ngôi đền này. Nhiều đồ thờ tự được mang đi gửi, một số gửi ở Miếu nhà cụ Ký Bô, một số mang đi đâu không rõ. Sau năm 1947, khi Pháp dùng máy bay ném bom đánh phá Cầu Chả, hòng cắt đứt đường vận chuyển của ta, các đồ thờ cúng của đền Thiềm Cung đang gửi ở miếu cụ Ký Bô (sau dân gọi là đền Bà Mực) đã được đem xuống thuyền ngược dòng Lô lên cây 21 thuộc xã Đức Ninh để gửi. Sau hòa bình, các đồ thờ tự này lại được đem về miếu nhà cụ Ký Bô, sau đó người ta lại mang lên Đền Hạ và đi gửi những đâu nữa, không ai biết.

Ngày nay đền Thiềm cung đã được dựng lại, nhưng nó không được dựng trên nền đất cũ ở bên đầu cầu Chả, mà nó được xây kẹp giữa đền Hạ và đền Kiếp bạc, nằm ngay trong vành đai bảo vệ số 1 của Đền Hạ, một di tích lịch sử cấp quốc gia đã được Bộ Văn Hóa cấp bằng công nhận, tạo nên phố Ba Đền.

Đền thờ nhà bà Lý Hưng:

Từ đền Hạ, đi ngược lên thị xã khoảng chừng một trăm mét hay là một dãy phố, ở bên phải đối diện đầu chợ Tam Cờ cũ, còn có một điện thờ của tư nhân, đó là điện thờ của nhà ông bà Lý Hưng, đây là một điện thờ của gia đình. Thời Pháp điện này cũng to lắm, con nhang đệ tử, nhất là bà con đi chợ Tam Cờ cũng hay cúng bái, lên đồng ở đây. Khi tiêu thổ kháng chiến năm 1947, điện này bị phá không cho quân Pháp làm nơi trú quân.

Miếu Đồng Tiền:

Từ điện thờ nhà ông bà Lý Hưng, đi chừng 500 mét nữa qua đầu chợ Tam Cờ mới, nhìn ra sông người ta lại thấy ở bên bờ sông Lô, nơi có dãy ghềnh đá hiểm trở, nước xoáy suốt ngày đêm có một cái miếu nhỏ, nhưng lúc nào cũng ngun ngút khói hương, đó là miếu Đồng Tiền. Tại sao gọi là miếu Đồng Tiền, miếu này dựng năm nào, thờ ai? Không ai biết! Chỉ biết từ xa xưa, những người lái đò dọc, đò ngang trên sông Lô cứ vào những ngày rằm, mồng một thường đến đây cúng bái. Những người chuyên đi buôn bằng đường sông nước cũng nói rằng, nếu không vào dâng lễ, thủy thần ở khu vực này sẽ phạt vạ, khó lòng làm ăn được. Miếu này cũng bị phá năm 1947.

Đền Hạ hay đền Tam Kỳ:

Ngôi đền tiếp theo là Đền Hạ, tên chữ là “Hiệp Thuận linh từ”, gọi là Hiệp Thuận vì đền này nằm trên đất của thôn Hiệp Thuận, xã Ỷ La, thuộc Tổng Trung Môn, huyện Phúc Yên của Phủ Yên Bình từ thời vua Lê Thánh Tông tức thời Hồng Đức, còn Linh từ là từ chỉ đây là ngôi đền thiêng của đất nước. Xa xưa ấy, hàng năm con nhang đệ tử từ kinh thành Hà Nội, các tỉnh lân bang, cứ vào sau tết họ nườm nượp kéo đến ngôi đền này tế lễ.

Thuyết xưa kể rằng: trong một lần theo cha tuần du miền biên ải, hai nàng công chúa là Phương Dung và Ngọc Lân con của vua Hùng đã đến khúc sông này. Vào một đêm bỗng nhiên sấm chớp đùng đùng, hai nàng hiển linh bay về trời, từ đó dân đã lập đền thờ. Đền Hạ ở Tam Cờ thờ Phương Dung, đền Thượng bên làng Tình Húc ở thượng nguồn sông Lô thờ Ngọc Lân công chúa, đây là hai vị thánh mẫu được thờ ở hai ngôi đền này từ thuở khai sinh ra đền cho đến hôm nay. Trải qua bao thăng trầm, ngôi đền Hạ, đặc biệt hệ thống Lưỡng long chầu nguyệt trên mái đền, các đình đao, và bốn chữ “Hiệp Thuận Linh Từ” khắc trên vách lầu hướng ra đường phố khẳng định đền được xây dựng lại năm 1738 vẫn còn rất nguyên vẹn.

Từ khi xây lại đền đến nay, Đền Hạ đã có 282 năm tuổi đời. So với 638 năm đất nước ghi danh hai chữ Tuyên Quang vào trong sử sách, thì Đền Hạ đã có tuổi đời gần bằng nửa tuổi đời hình thành nên địa danh của tỉnh, đó là một con số đáng nể!

Tại sao lại tính đền Hạ có tuổi đời như vậy? vì chính sử ghi lại rằng, năm 1282 khi đất nước đứng trước họa xâm lăng lần thứ hai của quân giặc Nguyên - Mông, triều đình nhà Trần đã cử Chiêu Minh Vương Trần Nhật Duật lên Tuyên Quang làm Tổng trấn nhằm chỉ huy quân dân ngăn chặn bước chân của giặc xâm lăng, vì thế tên Tuyên Quang chính thức có tên từ năm 1282 là như vậy. Bài Minh trên chuông “Bạch Hạc thông thanh quán” còn in rõ trong Tổng tập Thác bản văn khắc Hán - Nôm Việt Nam, sách thơ văn thời Lý - Trần cũng đã dịch minh chứng cho điều này. Còn năm 1738, thời Lê Trung Hưng, dân Tuyên Quang đã xây dựng lại ngôi đền thiêng này cho nguy nga tráng lệ hơn trước, vì thế ngôi đền này có tuổi gần bằng nửa tuổi đời của địa danh Tuyên Quang là vì vậy!

Lịch sử cũng ghi lại rằng, vào thời Minh Mệnh thứ 14 tức là năm 1833, vua cử Tổng trấn Lê Văn Đức cùng Nguyễn Công Trứ lên Tuyên Quang đi dẹp cuộc khởi nghĩa nông dân do Nùng Văn Vân làm thủ lĩnh. Mấy lần cất quân, mấy lần thất bại. Nghĩ đến việc cầu cứu thần linh, Lê Văn Đức đã vào đền Hạ để cầu khấn xin thánh thần giúp đỡ. Và cuối cùng ông ta đã dẹp được cuộc khởi nghĩa này. Tháng 6-1835 “Vua bèn sai bộ Lễ bàn ban sắc phong, đưa cho quan tỉnh sắm lễ phẩm đến các đền ấy tuyên sắc phong và ban lễ tế” (Đại Nam Thực Lục, trang 685 tập 4). Đền Hạ tiếp tục thờ cúng Thánh Mẫu Phương Dung công chúa như dân vẫn đang thờ cúng.

Năm 1884, khi giặc Pháp tấn công lên Tuyên Quang, triều đình nhà Nguyễn cho Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy liên quân Việt - Thanh chống lại, Lưu Vĩnh Phúc hiến kế tiêu thổ kháng chiến, được triều đình chấp thuận. Nhiều nhà cửa trong phố Tam Cờ bị phá, nhưng Đền Hạ vẫn được giữ nguyên.

Năm Ất Dậu 1945, khi nạn đói xảy ra, dân đói các nơi kéo lên thị xã Tuyên Quang, dân Tam Cờ mang cơm, nước, bánh trái đến tiếp tế cho bà con mình đúng nghĩa đồng bào nghĩa là cùng bọc trứng, nhiều người thoát khỏi nạn đói ở lại thành Tuyên không tha phương cầu thực nữa.

Năm 1946, Đền Hạ là nơi chính quyền cách mạng tổ chức Tuần Lễ vàng, ta đã thu được nhiều vàng do dân ủng hộ, trong đó có bà Liên Phương, người phụ nữ từ lầm than trở thành một tư sản về bánh kẹo, đã đóng góp một lượng vàng lớn cho cách mạng.

Năm 1947, lại một cuộc tiêu thổ kháng chiến nữa để chống Pháp, nhà dân và những ngôi đền khác trong phố bị phá sập, Đền Hạ vẫn sừng sững uy nghi trơ gan cùng tuế nguyệt.

Tháng 10/1947, sau khi các chiến sỹ tự vệ thành Tuyên đã tham gia trận địa lôi cây số 7 thành công, Tổng chỉ huy quân đội và dân quân Việt Nam Võ Nguyên Giáp cùng Trung đoàn trưởng trung đoàn 52 Bế Sơn Cương đã đến Đền Hạ gặp và động viên các chiến sỹ tham gia trận đánh này.

Cổng đền Hạ uy nghi cổ kính với đôi liễn ghi lời răn dạy của tiền nhân như sau:

“Lô giang tại kỳ tiền; La Sơn tại kỳ hậu
Nguy nga thiên cổ miễu; Quốc tộ phúc tâm dân”.

Có người dịch: phía trước đền Hạ là dòng sông Lô, phía sau đền Hạ là dãy núi Là, đây là ngôi đền cổ nguy nga và tráng lệ, đất nước có vững vàng là do lòng dân.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, có thời gian bị coi là nơi hành nghề mê tín dị đoan, dẫn tới bị dẹp bỏ. Nhưng với những giá trị văn hóa, lịch sử, năm 1994 đền Hạ được Bộ Văn hóa thông tin công nhận là Di tích cấp quốc gia. Ngày nay nhân dân thành phố, con nhang đệ tử khắp nơi lại về đây du ngoạn và thắp hương thờ thánh mẫu, làm cho Tam Cờ ngày thêm sinh động.

Vậy đấy, chỉ một quãng đường hơn một cây số, phố ngoài của Tam Cờ đã có tới 7 nơi thờ cúng thần thánh, đó còn chưa kể đến một ngôi đình gọi là đình Tam Cờ mà năm 1924 vẫn còn, sau đó nó bị phá bỏ. Đền, Miếu đó là những địa chỉ để góp phần làm nên một địa danh Tam Cờ cổ kính.

Theo Báo Tuyên Quang Online

                                                                                                                                

Xem tin theo ngày:   / /