Ngay sau khi ra đời (3-2-1930), Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo quần chúng cách mạng cả nước bước vào cuộc đấu tranh mạnh mẽ chống ách áp bức tàn bạo của kẻ thù. Tại Đại hội Đảng lần thứ nhất (tháng 3-1935), Đảng đã đề ra chủ trương mở rộng ảnh hưởng xác định cần phân phối lực lượng của mình tới những chỗ chưa phát triển. Sau Đại hội này, cơ sở cách mạng của Đảng ở tỉnh Tuyên Quang bắt đầu được hình thành.
Tháng 6-1937, đồng chí Hoàng Văn Lịch được Đảng điều về hoạt động tại tỉnh Tuyên Quang. Với tên gọi là Hai Cao, đồng chí vào làm việc ở mỏ than thị xã Tuyên Quang. Nhờ có sự lưu hành rộng rãi sách báo của Đảng và sự vận động tích cực, khéo léo của đồng chí Hai Cao, Nhân dân lao động Thị xã Tuyên Quang, nhất là công nhân mỏ than bước đầu được giác ngộ về quyền lợi giai cấp, quyền lợi dân tộc. Giữa năm 1938, đồng chí Hoàng Văn Lịch trở về Cao Bằng hoạt động, đồng chí Vũ Mùi được Xứ ủy Bắc Kỳ phân công lên Tuyên Quang phụ trách phong trào cách mạng ở địa phương. Đồng chí Vũ Mùi tiếp tục tuyên truyền, giác ngộ anh em công nhân và nhân dân lao động thị xã, tiến tới vận động bà con tham gia những hình thức đấu tranh cao hơn.
Năm 1939, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ tác động sâu sắc đến tình hình cách mạng ở Việt Nam. Tại tỉnh Tuyên Quang, mặc dù phong trào đấu tranh của Nhân dân thị xã đã phát triển mạnh, cơ sở quần chúng được mở rộng song chưa có tổ chức Cộng sản lãnh đạo trực tiếp và thống nhất. Nắm vững chủ trương của Trung ương Đảng, đánh giá đúng thực trạng và yêu cầu cấp bách của phong trào cách mạng địa phương, ngày 20-3-1940 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy Bắc Kỳ, lễ thành lập Chi bộ Mỏ than được tổ chức tại nhà đồng chí Cả Kiến (tức Ninh Văn Kiến) gồm có 7 đồng chí: Vũ Mùi, Lương Quang Mai (tức Kiến con), Trần Xuân Hồng (tức Hồng lớn), Bùi Văn Đức (tức Đức Kim), Lương Hải Bằng (tức Lương Văn Hải), Trần Hải Kế và Trần Thị Minh Châu. Đồng chí Vũ Mùi được chỉ định làm Bí thư. Chi bộ Mỏ than ra đời là tất yếu khách quan, đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển cách mạng của tỉnh; là kết quả của quá trình tuyên truyền, gây dựng cơ sở bền bỉ, đầy khó khăn, gian khổ của cán bộ, đảng viên; là kết quả của phong trào đấu tranh liên tục, mạnh mẽ của công nhân và nhân dân lao động Thị xã Tuyên Quang, thể hiện sự chỉ đạo sát đúng của Xứ ủy Bắc Kỳ trên cơ sở nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Trung ương Đảng. Chi bộ Mỏ than ra đời kịp thời đáp ứng yêu cầu cấp thiết phải có tổ chức Đảng trực tiếp lãnh đạo lực lượng cách mạng địa phương. Ngay sau khi Chi bộ Mỏ than thành lập, giữa năm 1941 Ban Cán sự Đảng tỉnh Tuyên Quang cũng được thành lập gồm 3 đồng chí: Trương Đình Dần (tức Điều) được chỉ định làm Bí thư Ban Cán sự, Đào Văn Thại (tức Lê Đồng, tức Chính) và Đỗ Thị Đức (tức Được) là ủy viên. Ban cán sự Đảng tỉnh chịu trách nhiệm xây dựng phong trào không chỉ ở Tuyên Quang mà còn ở Hà Giang và một số huyện thuộc Phú Thọ (nay thuộc Vĩnh Phúc). Hoạt động của Ban Cán sự vừa có tính chất độc lập về tổ chức, vừa có tính chất liên kết với Chi bộ Mỏ than về nội dung, nhiệm vụ cách mạng. Ban Cán sự Đảng là khâu trung gian giữa Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc kỳ đối với phong trào cách mạng trong tỉnh về mặt lãnh đạo.

Ba trong số bảy đảng viên đầu tiên của Chi bộ Mỏ Than tại nơi thành lập Chi bộ, nay thuộc tổ 12, phường Minh Xuân, thành phố Tuyên Quang (từ trái sang phải: đồng chí Bùi Đức Kim, Trần Thị Minh Châu, Lương Hải Bằng). Ảnh: Tư liệu
Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Mỏ than và Ban Cán sự Đảng tỉnh Tuyên Quang, nhiều đợt đấu tranh đã được tổ chức, như: Rải truyền đơn kêu gọi Nhân dân chống đi phu, đi lính, ủng hộ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn tại công trường làm sân bay cho Nhật - Pháp ở km 5 (đường Tuyên Quang đi bến Bình Ca); rải truyền đơn, dán áp phích ở trại lính, công sở, đường phố, nơi đông người; treo cờ đỏ búa liềm đã được treo ở núi Dùm; rải truyền đơn, áp phích ở nhiều nơi trong thị xã đòi tự do lập nghiệp đoàn... Sau Hội nghị Trung ương 8 (1941), được sự chỉ đạo của Xứ uỷ, Ban Cán sự Đảng tỉnh và Chi bộ Mỏ than thành lập các tổ chức Cứu quốc như: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc... Đồng thời tiếp tục củng cố, rèn luyện quần chúng thông qua tổ chức mít tinh kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga, kỷ niệm người anh hùng Nguyễn Huệ, vận động quần chúng đấu tranh chống thuế, chống nộp thóc đầu mẫu, chống quyết định nhổ ngô trồng thầu dầu, góp tiền ủng hộ Nhân dân tham gia các cuộc khởi nghĩa trong nước.
Cuối năm 1941, trước sự vây ép của kẻ thù tại căn cứ Võ Nhai, một bộ phận Cứu quốc quân đã rút lên biên giới Việt - Trung, một bộ phận khác do đồng chí Nguyễn Cao Đàm phụ trách đã rút về vùng Đại Từ (Thái Nguyên) để bảo toàn lực lượng và xây dựng căn cứ mới. Sau khi bắt liên lạc với chi bộ La Bằng (Đại Từ, Thái Nguyên), được sự giúp đỡ của đồng chí Đặng Nguyên Minh - một thanh niên người Dao có ý thức giác ngộ cách mạng cao, Cứu quốc quân đã xây dựng cơ sở cách mạng ở vùng chân núi Hồng (huyện Sơn Dương) và các xã hẻo lánh thuộc phía tây của Yên Sơn. Chỉ một thời gian ngắn, các cơ sở cách mạng từ La Bằng (Thái Nguyên) đến Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang) đã được nối liền. Cuối năm 1941, lực lượng Cứu quốc quân đã xây dựng được cơ sở Việt Minh tại một vùng rộng lớn trải dài từ Phú Lương, Đại Từ, chợ Chu (Thái Nguyên) đến Sơn Dương, Chiêm Hóa (Tuyên Quang) lên Bản Mương, Bản Tạt (vùng Ba Bể) đánh dấu một bước quan trọng, tạo ra một triển vọng mới đưa phong trào cách mạng phát triển.
Tháng 01-1943, một cuộc họp giữa Trung ương Đảng, liên tỉnh Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn và chỉ huy Cứu quốc quân được tổ chức, quyết định: Giữ vững vùng biên giới, đánh thông đường từ đó về Bình Gia, Bắc Sơn, Võ Nhai; gây dựng cơ sở mới ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Giang, củng cố các cơ sở cũ và nối liền các đường liên lạc với nhau; xúc tiến thành lập đội xung phong Nam tiến. Tháng 11-1943, lãnh đạo Cứu quốc quân quyết định chọn vùng núi Hồng (Sơn Dương) làm địa bàn xây dựng căn cứ, lấy đây làm bàn đạp để phát triển cơ sở ra xung quanh. Thực hiện chủ trương này, hàng loạt các cơ sở cách mạng được xây dựng ở các xã: Hợp Thành, Trung Yên, Bình Yên, Kháng Nhật, Trúc Khê... (thuộc huyện Sơn Sương), xã Chiêu Yên, Quý Quân, Kiến Thiết, Trung Trực, Kim Quan (thuộc huyện Yên Sơn). Đồng thời với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào Việt Minh ở phía đông tỉnh Tuyên Quang, từ Cao Bằng, Bắc Kạn, ngọn lửa cách mạng đã lan tới các huyện: Hàm Yên, Chiêm Hóa, Na Hang, các xã nằm ở hữu ngạn sông Lô, sông Gâm thuộc huyện Yên Sơn.
Đầu năm 1944, một tổ Cứu quốc quân do đồng chí Chu Phóng chỉ huy đã tiến sang phía tây tỉnh Tuyên Quang. Thời gian sau, cánh quân này bắt liên lạc được với căn cứ Khuôn Lành, phong trào quần chúng ở phía tây tỉnh, hòa vào phong trào cách mạng trong toàn tỉnh. Động Bạch Xà (nằm ở chân núi Là, thuộc huyện Yên Bình) trở thành trung tâm của Mặt trận Việt Minh, Ban Việt Minh và các tổ chức Cứu quốc quân được thành lập ở hàng loạt xã: Thắng Quân, Giếng Tanh, Khuôn Lành, Làng Giao, Mơ Cao, Linh Cốc, Cây Thị, Bạch Xà, Mỹ Bằng, Đoan Hùng, Sóc Đăng... Đến giữa năm 1944, phong trào cách mạng đã hình thành ở hầu hết các vùng nông thôn tỉnh Tuyên Quang; các căn cứ của phong trào đã được nối liền; cuộc đấu tranh của quần chúng phát triển lên thành cao trào; trọng tâm các hoạt động của cách mạng là chuẩn bị lực lượng cho khởi nghĩa giành chính quyền với những nhiệm vụ cấp bách: đẩy mạnh quá trình xây dựng lực lượng võ trang có trang bị vũ khí, khẩn trương thực hiện huấn luyện chương trình Việt Minh, thành lập ban Việt Minh các cấp để khi khởi nghĩa nổ ra, các ban này có thể đảm nhiệm vai trò là đại diện của chính quyền cách mạng. Trước sự lớn mạnh nhanh chóng của phong trào Việt Minh, địch đã mở các cuộc tổng khủng bố phong trào cách mạng trong phạm vi toàn quốc, chúng giăng lưới kiểm soát đến tận vùng xa xôi, hẻo lánh. Tuy vậy, nhờ tinh thần đấu tranh kiên cường, lòng trung thành tuyệt đối của các đồng chí đối với Đảng, với cách mạng, phong trào ở phía bắc tỉnh Tuyên Quang vẫn được giữ vững.

Đình Thanh La, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương - Nơi tổ chức mít tinh thành lập chính quyền cách mạng xã (11/3/1945) và Ủy ban cách mạng lâm thời châu Tự Do (16/3/1945), một trong những chính quyền cách mạng cấp xã và cấp huyện đầu tiên trong cả nước. Ảnh: Tư liệu
Sang năm 1945, cục diện chiến tranh thế giới có những thay đổi quan trọng. Ở Việt Nam, mâu thuẫn giữa Nhật - Pháp gay gắt đến cực độ. Ngày 9-3-1945, Phát xít Nhật tiến hành đảo chính lật đổ Pháp, độc chiếm Đông Dương. Ngay sau sự kiện quân Nhật nổ súng đảo chính Pháp ở Đông Dương, đêm ngày 9-3-1945 quân Pháp và bọn tay sai hốt hoảng bỏ chạy khỏi thị xã Tuyên Quang. Ở thời điểm đó, tuy chưa nhận được chỉ thị mới của Trung ương, song căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương, chủ trương chung của Đảng, được sự hỗ trợ của các lực lượng vũ trang, các địa phương trong tỉnh lần lượt nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền: Đêm 10-3-1945, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Tạ Xuân Thu, quân ta giải phóng hoàn toàn xã Thanh La, đây là một trong những cuộc khởi nghĩa nổ ra sớm nhất trên phạm vi cả nước thời kỳ tiền khởi nghĩa và khởi nghĩa từng phần. Đêm 12, rạng sáng ngày 13-3-1945, ta bao vây, đánh chiếm đồn Đăng Châu thành lập châu Tự Do và Ủy ban cách mạng lâm thời châu, đây là chính quyền nhân dân cấp châu đầu tiên của cả nước. Cuối tháng 4 đến đầu tháng 5-1945 quân ta giải phóng toàn bộ vùng trung, hạ huyện Sơn Dương thành lập châu Kháng Địch. Đầu tháng 6-1945, khởi nghĩa giành chính quyền thành công ở Na Hang thành lập châu Xuân Trường. Trung tuần tháng 5-1945 chính quyền cách mạng đã làm chủ toàn bộ huyện Chiêm Hóa thành lập châu Khánh Thiện bao gồm toàn bộ huyện Chiêm Hóa và các tổng: Phù Loan, Yên Lũng (Hàm Yên), Sơn Đô, Yên Lĩnh (vùng thượng huyện Yên Sơn).

Lá cờ đỏ sao vàng đã được giương cao trong cuộc khởi nghĩa Thanh La, huyện Sơn Dương (10/3/1945)-Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền cơ sở đầu tiên của tỉnh. Ảnh: Tư liệu
Tại Yên Sơn, các Ban Việt Minh xã đã lãnh đạo Nhân dân nổi dậy phối hợp cùng lực lượng vũ trang từ Sơn Dương sang đè bẹp những ổ kháng cự cuối cùng của địch thành lập châu Hồng Thái gồm 2 tổng Bình Ca và Kim Quan với 12 xã, 2 động người Dao và Cao Lan.
Ở Hàm Yên, ngày 15-5-1945 phủ Toàn Thắng được thành lập bao gồm phần lớn huyện Hàm Yên, một phần huyện Yên Bình và các xã: Thắng Quân, Tứ Quận, Chiêu Yên, Xuân Vân, Trung Trực của Yên Sơn.

Thôn Ao Búc, xã Trung Yên, huyện Sơn Dương, nơi đặt cơ quan Phân khu ủy Phân khu B - Nguyễn Huệ (1944-1945) do đồng chí Song Hào làm Bí thư. Ảnh: Tư liệu
Tháng 4-1945, từ Chiêm Hóa, lực lượng do đồng chí Trần Thế Môn chỉ huy phát triển qua Hàm Yên, sang Yên Bình giải phóng huyện lỵ Yên Bình vào cuối tháng 5-1945.
Tới ngày 22-5-1945 ta đã giải phóng được hầu hết các địa phương trong tỉnh. Sự ra đời của các châu, phủ, chính quyền nhân dân ở: Tự Do, Kháng Địch, Khánh Thiện, Xuân Trường, Hồng Thái, Toàn Thắng, Quyết Thắng đã mở ra một vùng tự do rộng lớn của cách mạng, trở thành nơi cung cấp lực lượng, vật chất cho phong trào cách mạng cả nước chuẩn bị cho một cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Nguyễn Văn Đức
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2000.
2- Địa chí Tuyên Quang, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2014.