Tuyên Quang-Nơi ra đời của Khu giải phóng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Thứ Sáu, ngày 28 tháng 6 năm 2024 - 16:02 Đã xem: 3090

Bước sang năm 1945, tình hình thế giới và trong nước diễn biến có lợi cho cách mạng Việt Nam. Đêm 09/3/1945, Nhật nổ súng đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương, Pháp chống trả yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng. Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Ngay sau khi Chỉ thị ra đời, phong trào kháng Nhật cứu nước dâng lên mạnh mẽ thành cao trào, các cuộc khởi nghĩa từng phần nổ ra ở nhiều địa phương, đặc biệt là Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang...

Nắm sát diễn biến tình hình thế giới và phong trào cách mạng trong nước, nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng, tháng 5/1945 lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng quyết định chuyển địa bàn đứng chân từ Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên Quang).

Tại Tân Trào, sau khi nghe báo cáo tình hình chung của cả nước và kết quả Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị: Vùng giải phóng miền núi Bắc Kỳ đã bao gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái địa thế nối liền nhau, cho nên phải thành lập một khu căn cứ cách mạng rộng lớn lấy tên là Khu Giải phóng. Đồng thời, Người chỉ thị cho các đồng chí Trung ương chuẩn bị triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân Việt Nam - Đại hội mà Người đã dự định tổ chức vào cuối năm 1944 để sớm có những quyết định về vận mệnh dân tộc.

Chấp hành chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh về việc thành lập một căn cứ cách mạng rộng lớn ở Việt Bắc, ngày 4/6/1945 Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị tuyên bố thành lập Khu Giải phóng. Phạm vi Khu Giải phóng bao gồm các tỉnh Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn - Hà Giang - Tuyên Quang - Thái Nguyên và một số vùng phụ cận thuộc các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái, chọn Tân Trào làm Thủ đô Khu Giải phóng.

Để xây dựng Khu Giải phóng vững chắc về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, Uỷ ban chỉ huy lâm thời, các uỷ ban nhân dân cách mạng do nhân dân cử lên đã ra sức huy động mọi lực lượng trong Khu từng bước thực hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh tại Khu Giải phóng, gồm: Thủ tiêu lực lượng của Nhật, trừ khử Việt gian, trừng trị lưu manh; Tịch thu tài sản của lũ giặc cướp nước và của Việt gian làm cho chung toàn dân hoặc chia cho dân nghèo; Thực hiện phổ thông tuyển cử và các quyền tự do dân chủ; Vũ trang quần chúng, động viên quần chúng tham gia xây dựng du kích, ủng hộ giải phóng quân chống quân Nhật tấn công vùng giải phóng; Tổ chức khai hoang, khuyến khích sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc cho Khu Giải phóng; Quy định ngày lao động, thi hành luật bảo hiểm, cứu tế xã hội; Chia lại ruộng đất công, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ; Bỏ thuế khoá và phu dịch do chế độ thực dân đặt ra, dự định đặt thuế lũy tiến lợi tích duy nhất và nhẹ; Chống nạn mù chữ, huấn luyện quân sự, chính trị phổ thông cho nhân dân; Dân tộc bình đẳng, trai gái ngang quyền.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, chỉ trong một thời gian ngắn, trên địa bàn Tuyên Quang và các địa phương khác trong Khu Giải phóng, các chủ trương, chính sách lớn của Đảng, của Mặt trận Việt Minh được triển khai nhanh chóng, làm thay đổi cuộc sống của nhân dân, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng cả nước. Khu Giải phóng ra đời đã tạo điều kiện và thúc đẩy phong trào cách mạng trên cả nước, trước hết là ở Bắc kỳ, tiến lên mạnh mẽ hơn nữa. Nhận xét về Khu Giải phóng, đồng chí Trường Chinh cho rằng đó là hình ảnh “ Nước Việt Nam mới ra đời (…) một phần Bắc Bộ đã thực tế dưới chính quyền cách mạng”(1).

Tại Khu Giải phóng lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình thế giới. Ngày 08/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật, chỉ trong vòng một tuần đã đánh bại đội quân Quan Đông của Nhật. Các nước đồng minh cũng đồng loạt tấn công vào các vị trí phòng thủ của Nhật. Phát xít Nhật thất bại trên các mặt trận. Lực lượng Nhật và tay sai ở Đông Dương tê liệt, hoang mang, rệu rã. Thời cơ tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của cách mạng Việt Nam đã đến. Lãnh tụ Hồ Chí Minh xác định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập!”(2).

Ngày 13/8/1945 Trung ương Đảng quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh phụ trách. Ngay trong đêm 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa đã ban bố lệnh khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước với Bản Quân lệnh số 1(3). Tại khu rừng Nà Nưa - Tân Trào, từ ngày 14 đến 15/8/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị toàn quốc của Đảng. Hội nghị khẳng định “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”(4) và đưa ra những quyết định trọng đại, thay đổi vận mệnh dân tộc, đó là chớp thời cơ tổng khởi nghĩa, giành chính quyền.

Từ ngày 16 đến 17/8/1945, hơn 60 đại biểu toàn quốc đại diện các đảng phái chính trị, đoàn thể cứu quốc, dân tộc, tôn giáo tham dự Quốc dân Đại hội tại đình Tân Trào, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đại hội biểu thị ý chí, quyết tâm sắt đá giành độc lập của toàn thể nhân dân Việt Nam; cử ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam (Chính phủ lâm thời) do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch; thông qua 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, quy định Quốc kỳ, Quốc ca. 

Trước đình Tân Trào, sáng ngày 17/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các thành viên trong Ủy ban giải phóng dân tộc làm lễ tuyên thệ. Người hô vang lời thề: “Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Uỷ ban dân tộc giải phóng để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, không lùi bước. Xin thề!”(5). Ngày 18/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi tổng khởi nghĩa: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”(6).

Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam triệu người như một, nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do; mở ra thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ nhất, vinh quang nhất trong lịch sử dân tộc. Là nơi diễn ra các sự kiện trọng đại dẫn tới cuộc Tổng khởi nghĩa thành công trong cả nước, Tân Trào thực sự xứng danh là Thủ đô của Khu Giải phóng Việt Bắc, là căn cứ đầu não chỉ đạo cách mạng cả nước trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Nguyễn Văn Đức

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1). Trường Chinh: Cách mạng Tháng Tám (xuất bản lần thứ sáu), Nxb. Sự thât, Hà Nội, 1960, tr.9.

(2). Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tập 2, tr.267.

(3). Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam: Lịch sử Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội t.9, tr. 692.

(4). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 424.

(5). Tân Trào toàn cảnh, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000, tr.111.

(6). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.596.

Xem tin theo ngày:   / /