Ảnh minh họa: Tất Thắng
Ngày 22/12/1944, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam - được thành lập tại khu rừng giữa tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm Nà Sang, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Đội quân gồm 34 chiến sĩ, được biên chế thành ba tiểu đội, với vũ khí thô sơ nhưng mang trong mình tinh thần chiến đấu bất khuất và ý chí cách mạng kiên cường. Ngay sau ngày thành lập, Đội đã giành chiến thắng vẻ vang tại các trận Phai Khắt và Nà Ngần, mở đầu cho truyền thống đánh trận đầu thắng lợi của quân đội ta [1].
Tháng 4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Đảng đã quyết định hợp nhất các tổ chức vũ trang cách mạng trên cả nước thành Việt Nam giải phóng quân. Trong Cách mạng tháng tám, năm 1945, Việt Nam giải phóng quân đã cùng lực lượng vũ trang các địa phương và Nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc. Cách mạng tháng tám, năm 1945 thành công, Việt Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ quốc đoàn, rồi Quân đội quốc gia Việt Nam (1946), từ năm 1950 được gọi là Quân đội nhân dân Việt Nam.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ hai, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang phát triển mạnh mẽ, cùng Nhân dân ta nhất tề đứng lên, quyết chiến đấu với quân xâm lược. Cuối năm 1946, theo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước chia thành 12 chiến khu. Lúc này, ở Nam Bộ vẫn tổ chức các chi đội Vệ quốc đoàn, ở Bắc Bộ và Trung Bộ có 30 trung đoàn và một số tiểu đoàn thuộc các chiến khu. Hệ thống tổ chức Đảng trong Quân đội được thành lập từ Trung ương Quân ủy đến chi bộ.
Đêm 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, quân và dân ta đã đánh hàng trăm trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Mùa xuân năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ lên Việt Bắc, nơi đây trở thành trung tâm chỉ đạo kháng chiến của cả nước.
Tháng 6/1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới, chủ động tấn công Pháp. Tháng 11/1951, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hoà Bình, vừa tập trung chủ lực trên mặt trận chính Hoà Bình, vừa đưa một bộ phận chủ lực vào hoạt động trong vùng địch hậu đồng bằng Bắc bộ. Đầu tháng 9/1952, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Tây Bắc. Trước những thay đổi cục diện chiến tranh ở Đông Dương, trên cơ sở đánh giá đúng tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch, tháng 9/1953, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông xuân 1953 - 1954. Thực hiện chủ trương đó, Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho các đơn vị chủ lực phối hợp mở đợt tiến công mạnh mẽ trên các chiến trường. Ta đã hình thành năm đòn tiến công chiến lược tại Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào - Đông Bắc Campuchia, Tây Nguyên và Thượng Lào, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, buộc chúng phải căng ra đối phó ở khắp nơi.
Sau khi thực dân Pháp đổ quân đánh chiếm Điện Biên Phủ, trước thời cơ thuận lợi, ngày 06/12/1953, Bộ Chính trị họp quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm (13/3 - 7/5/1954) liên tục chiến đấu, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 tên địch, bắn rơi và phá huỷ 62 máy bay; thu toàn bộ vũ khí, kho tàng, cơ sở vật chất kỹ thuật của địch ở Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Chiến dịch Điện Biên Phủ là một điển hình xuất sắc, là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Đồng thời là minh chứng cho sự phát triển vượt bậc của Quân đội ta sau 10 năm xây dựng, chiến đấu và chiến thắng vẻ vang (1944 - 1954).
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ mở ra một giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Với phương châm kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, đấu tranh ngoại giao, Quân đội ta tiếp tục phát huy sức mạnh, giữ vai trò nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, từng bước đánh bại các chiến lược của đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn: “Chiến tranh một phía” (1954-1960), “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968), “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969-1975). Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, với tinh thần “thần tốc, táo bạo”, chỉ trong 55 ngày đêm, Quân đội ta đã tiến công dũng mãnh, đập tan toàn bộ quân đội, ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông về một mối, kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975). Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (ngày 26 đến 30-4-1975), trận quyết chiến kết thúc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cùng với những chiến công Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ... mãi là những dấu mốc vinh quang chói lọi trong tiến trình đi lên của lịch sử dân tộc Việt Nam [2].
Quân đội nhân dân Việt Nam đã ghi dấu ấn sâu đậm qua các cuộc kháng chiến trường kỳ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội ta đã phát huy tinh thần đoàn kết toàn dân, lập nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.Tiếp đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quân đội ta lại tiếp tục là lực lượng nòng cốt, góp phần quyết định vào chiến thắng lịch sử mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trên suốt hành trình ấy, hình ảnh những người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam - mang phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” - đã khắc sâu vào tâm trí của Nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.
Hòa bình lập lại, Quân đội nhân dân Việt Nam không chỉ đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc mà còn tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. Từ việc giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai, tham gia xóa đói giảm nghèo, đến đóng góp vào các hoạt động giữ gìn hòa bình quốc tế, quân đội luôn phát huy vai trò xung kích, là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Hiện nay, quân đội ta đang không ngừng hiện đại hóa, nâng cao trình độ tác chiến, ứng dụng công nghệ cao vào các hoạt động quân sự, quốc phòng để sẵn sàng ứng phó với mọi thách thức trong bối cảnh mới.
Ngày 22/12 không chỉ là ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, mà từ năm 1989, đây còn là Ngày Hội Quốc phòng toàn dân. Điều này khẳng định sự gắn bó chặt chẽ giữa quân đội và Nhân dân, đồng thời nhấn mạnh vai trò to lớn của Nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ đất nước. Nhìn lại 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam và nền quốc phòng toàn dân đã khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng.
Truyền thống và những thành tựu vẻ vang của dân tộc Việt Nam không chỉ là niềm tự hào mà còn là động lực để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục phấn đấu vì một Việt Nam hòa bình, thịnh vượng. Quân đội Nhân dân Việt Nam và Nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục viết nên những trang sử vàng, xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hòa bình, ổn định và phát triển bền vững.
Đỗ Hồng Thanh
1. BTGTW-Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam; Đề cương tuyên truyền 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân; Tuyên giáo, Tạp chí của Ban Tuyên giáo trung ương, 25/7/2024.
2. Trung tá, TS. Trần Hữu Huy, Truyền thống quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam; Quân đội nhân dân, cơ quan của Quân ủy trung ương và Bộ quốc phòng, tiếng nói của Lực lượng vũ trang và Nhân dân Việt Nam, 13/12/2024.