I- Một số thành tựu của đất nước sau gần 40 năm đổi mới
1- Cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước sau gần 40 năm đổi mới
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là lựa chọn mang tính lịch sử, là sự nghiệp sáng tạo vĩ đại mang tầm vóc lịch sử, có ý nghĩa to lớn, phù hợp thực tiễn Việt Nam, quy luật, xu thế phát triển chung của thời đại. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; độc lập, chủ quyền quốc gia và môi trường hòa bình được giữ vững, chính trị - xã hội ổn định, kinh tế ngày càng phát triển, quốc phòng - an ninh được bảo đảm vững chắc, đời sống mọi mặt của Nhân dân không ngừng được nâng cao. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định và nâng cao “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đây là tiền đề quan trọng để đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng, hiện thực hóa khát vọng, ý chí của toàn Đảng, toàn dân xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2- Một số thành tựu trên các lĩnh vực sau gần 40 năm đổi mới
2.1- Lĩnh vực kinh tế
Trước đổi mới, Việt Nam là một nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra gay gắt, tỉ lệ lạm pháp có lúc lên đến 774,7%, đời sống Nhân dân khó khăn. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trung bình khoảng gần 7% mỗi năm. Nước ta từ một nước nghèo nàn, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng, quy mô và sự phát triển của nền kinh tế đạt được ở mức cao, từ năm 1986 đến năm 2023 đạt bình quân đạt mức 6,55%/năm. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008 vươn lên lọt vào Top 40 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại trong Top 20 quốc gia trên thế giới, mắt xích quan trọng trong 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) gắn kết với 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu. Tổng sản phẩm nội địa bình quân đầu người năm 2025 gần gấp 25 lần sau ba thập kỷ.
Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% tổng sản phẩm nội địa. Nông nghiệp phát triển, Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Tăng trưởng dựa nhiều hơn vào khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo. Mức đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn hơn, giai đoạn 2011-2015 là 34,75%, giai đoạn 2016-2020 là 46,04%, giai đoạn 2021-2023 là 37,61%.
2.2- Lĩnh vực Văn hóa - xã hội
2.1.1- Văn hóa
Lĩnh vực văn hóa có bước phát triển, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ngày càng được nâng cao; cùng với đó, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa ngày càng được củng cố. Tính đến ngày 18/01/2024, cả nước có 294 hiện vật, nhóm hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia và được bảo quản tại hệ thống bảo tàng trên cả nước cùng với hơn 4 triệu hiện vật khác. Đến nay, gần 8.000 lễ hội được lưu truyền gắn với các tín ngưỡng dân gian, phong tục, tập quán, nghệ thuật trình diễn dân gian, trò chơi dân gian, các làng nghề thủ công truyền thống ở khắp các vùng, miền trên cả nước.
Hệ thống thiết chế văn hóa tiếp tục được quan tâm đầu tư, đời sống văn hóa của Nhân dân ngày càng phong phú. Công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tiếp tục được quan tâm. Chính phủ đã ban hành các chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa, từng bước tăng cường đầu tư nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước cho công tác bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị các di sản văn hóa; ban hành Chương trình Bảo tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025, Chương trình số hóa Di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030…
2.1.2- Giáo dục và đào tạo và các chỉ số về phát triển con người
Hệ thống giáo dục tiếp tục phát triển từ cấp mầm non đến đại học; quy mô, mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập thường xuyên, học tập suốt đời của người dân. Cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2017, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000, phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010. Chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn có chuyển biến tốt, được thế giới ghi nhận. Giáo dục thường xuyên phát triển đa dạng về nội dung và hình thức. Đổi mới giáo dục đại học gắn với tăng cường tự chủ được triển khai, đào tạo gắn kết hơn với nhu cầu thị trường lao động; nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ được đẩy mạnh; công bố khoa học quốc tế tăng mạnh, xuất hiện ngày càng nhiều hơn cơ sở giáo dục đại học và nhóm ngành đào tạo xếp hạng cao trong khu vực và trên thế giới.
Phát triển con người Việt Nam đạt được nhiều thành tựu về tầm vóc, thể lực và trình độ. Các chỉ số hạnh phúc (HPI), chỉ số phát triển con người (HDI), sức khỏe, tuổi thọ bình quân được cải thiện. Tuổi thọ trung bình của người dân không ngừng tăng lên, từ 62 tuổi năm 1990 lên 75 tuổi năm 2025.
2.1.3- Y tế, chăm sóc sức khỏe Nhân dân
Đảng và Nhà nước luôn chú trọng tới công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đề ra các chủ trương, chính sách nhằm chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, coi sức khỏe của Nhân dân là trách nhiệm của tất cả các ngành, các đoàn thể, là trách nhiệm và lợi ích thiết thân của mỗi công dân.
Quy mô và năng lực cung ứng dịch vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân ngày càng được nâng cao. Hệ thống y tế các tuyến từ trung ương đến địa phương ngày càng được củng cố và phát triển. Các hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu, y tế dự phòng, công tác kiểm soát bệnh truyền nhiễm và bệnh không lây nhiễm được đẩy mạnh.
Ngân sách nhà nước và nguồn lực xã hội đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho Nhân dân ngày càng tăng. Xã hội hóa công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho Nhân dân được đẩy mạnh và đạt được nhiều tiến bộ. Đến hết năm 2023, số bác sĩ trên 10.000 dân đạt 12,5 bác sĩ. Số giường bệnh trên 10.000 dân đạt 32 giường bệnh. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,2% dân số. Tuổi thọ trung bình tăng từ 71,3 năm 2002 lên 73,7 năm 2023. Tỷ lệ dân số được quản lý sức khỏe trên 80%. Trạm y tế xã được triển khai từ năm 1985, đến năm 1995 cả nước không còn xã trắng về tiêm chủng. Việt Nam đã thanh toán hoàn toàn bệnh bại liệt vào năm 2000 và loại trừ bệnh uốn ván sơ sinh vào năm 2005, bệnh sởi năm 2015.
2.1.4- An sinh xã hội
Qua gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã cơ bản xây dựng được một hệ thống an sinh xã hội đồng bộ, nhất là các chính sách về tạo việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu cho người dân; bảo hiểm xã hội, bù đắp phần thu nhập bị suy giảm khi đau ốm, tai nạn lao động, tuổi già; trợ giúp xã hội đột xuất và thường xuyên; cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, chính sách ưu đãi đối với người có công... Đây là những thành tựu tiên phong trong thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam đã được Liên hợp quốc công nhận, biểu dương.
2.3- Quốc phòng - an ninh; đối ngoại
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng đúng đắn, đầy đủ.
Nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với 3 trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân ngày càng được củng cố và phát triển. Từ một đất nước bị bao vây cô lập, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (P5), các nước lớn và là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Việt Nam được Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế xem như một điểm sáng về xóa đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân; Việt Nam đã vươn lên trở thành biểu tượng hòa bình, ổn định, hiếu khách, điểm đến của các nhà đầu tư và du khách quốc tế...
2.4- Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Xây dựng Đảng về chính trị được coi trọng; xây dựng Đảng về tư tưởng tiếp tục được đẩy mạnh; xây dựng Đảng về đạo đức được đặc biệt quan tâm; xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ có nhiều đổi mới. Tổ chức cơ sở đảng được thiết lập hệ thống, sâu rộng trên tất cả các đơn vị cơ sở. Đội ngũ đảng viên có sự phát triển mạnh về số lượng, cơ cấu được cải thiện, chất lượng được nâng cao. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được đẩy mạnh, có nhiều đổi mới, có hiệu lực, hiệu quả. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đã đạt nhiều kết quả quan trọng, đột phá, toàn diện trên cả hai mặt “phòng” và “chống”. Phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị đã có nhiều đổi mới, phù hợp với cơ chế kinh tế và bối cảnh quốc tế mới.
Hệ thống chính trị được sắp xếp, đổi mới theo hướng “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, phù hợp với yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, sự vận động, phát triển của thực tiễn khách quan.
II- Một số thành tựu của đất nước giai đoạn 2020-2025
1- Lĩnh vực kinh tế
Giai đoạn 2020-2025, nền kinh tế của đất nước vượt qua nhiều khó khăn, bảo đảm ổn định vĩ mô, duy trì được đà tăng trưởng khá, đạt bình quân 5,9%/năm. Quy mô nền kinh tế năm 2025 ước đạt khoảng 500 tỷ USD, xếp thứ 32 trên thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN; tổng sản phẩm nội địa bình quân đầu người ước đạt 4.900 USD; thu nhập quốc dân bình quân đầu người đạt khoảng 4.650 USD, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Quy mô thương mại không ngừng tăng lên, xếp thứ 20 trên thế giới.
1.1- Công nghiệp
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh, phát triển bền vững đạt nhiều kết quả tích cực. Tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và khu vực dịch vụ tăng, đến năm 2025 chiếm 80,5% tổng sản phẩm nội địa. Các ngành sản xuất và dịch vụ bước đầu được cơ cấu lại theo hướng số hóa, xanh hóa, đa dạng hóa, nâng cấp chuỗi giá trị trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới, sáng tạo.
Tỷ trọng ngành chế biến, chế tạo trong tổng sản phẩm nội địa tăng từ 23,9% năm 2020 lên khoảng 25% năm 2025. Đã hình thành một số ngành công nghiệp quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, từng bước hình thành năng lực tự chủ của nền kinh tế.
1.2- Nông nghiệp
Nông nghiệp chuyển nhanh theo hướng sinh thái, xanh, tuần hoàn, ứng dụng công nghệ cao, tiếp tục phát huy vai trò “trụ đỡ” trong nền kinh tế, bảo đảm nhu cầu lương thực, thực phẩm an toàn, an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu, Việt Nam xếp thứ 15 trên thế giới và thứ 2 Đông Nam Á về xuất khẩu nông sản.
1.3- Phát triển đô thị và xây dựng nông thôn mới
Đô thị hóa và phát triển đô thị đã và đang trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội; đến năm 2025, tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 45%. Hạ tầng kỹ thuật xã hội của đô thị, nhất là ở các thành phố lớn đang được đầu tư, mở rộng và hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ. Nhiều công trình giao thông quan trọng, quy mô lớn được đầu tư, nâng cấp, bảo đảm kết nối giữa các trung tâm kinh tế lớn, các vùng, miền trong cả nước và giao thông quốc tế. Đến năm 2025, cả nước có hơn 3.000 km đường bộ cao tốc.
Xây dựng nông thôn mới hoàn thành sớm mục tiêu đề ra. Tính đến tháng 6/2024, cả nước có 6.370 đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 2.115 xã nông thôn mới nâng cao, 465 xã nông thôn mới kiểu mẫu; 284 đơn vị cấp huyện hoàn thành nhiệm vụ đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Cả nước hiện có khoảng 880 nghìn cơ sở sản xuất ngành nghề nông thôn với trên 3,7 triệu lao động; có trên 13 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên. Cơ cấu kinh tế, trình độ sản xuất và diện mạo khu vực nông thôn thay đổi rõ rệt. Đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và dân cư nông thôn từng bước được nâng cao.
2- Lĩnh vực văn hóa – xã hội
Thể chế, chính sách và nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa được tăng cường. Công nghiệp và dịch vụ văn hóa, thị trường văn hóa từng bước được phát triển. Phát triển toàn diện con người Việt Nam được xác định là trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đạt được một số kết quả quan trọng. Phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo có nhiều tiến bộ. Tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước được tăng cường.
Chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo, chính sách đối với người có công... tiếp tục được hoàn thiện. Các chính sách giảm nghèo đa chiều được triển khai rộng khắp và có hiệu quả, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều được triển khai rộng khắp và có hiệu quả; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều năm 2024 giảm còn 1,93%. Đến năm 2025, cơ bản xóa toàn bộ nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước.
Hệ thống y tế, khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân có bước phát triển. Hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp được mở rộng; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 90,9% năm 2020 lên 94,1% năm 2024.
3- Quốc phòng - an ninh; đối ngoại
Quốc phòng - an ninh tiếp tục được tăng cường vững mạnh. Chăm lo đầu tư, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Đối ngoại đã phát huy tích cực, hiệu quả vai trò tiên phong, đưa quan hệ với các nước và đối tác đi vào chiều sâu, góp phần duy trì, củng cố môi trường hòa bình, ổn định, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao để đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
4- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị
Công tác xây dựng Đảng về chính trị tiếp tục được chú trọng, tăng cường. Bản lĩnh chính trị, trình độ, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ngày càng được nâng cao. Xây dựng Đảng về tư tưởng tiếp tục được đổi mới. Công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị và công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được triển khai có hiệu quả hơn. Xây dựng Đảng về đạo đức được đặc biệt coi trọng. Đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên tiếp tục được đổi mới, bước đầu đạt kết quả tích cực.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, đạt kết quả tích cực. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, toàn diện, đi vào chiều sâu với quyết tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đạt nhiều kết quả rất quan trọng.
Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được triển khai đồng bộ hơn. Hệ thống chính trị tiếp tục được sắp xếp lại theo hướng “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”.
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội tiếp tục được đổi mới, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy, đồng thuận xã hội được tăng cường.
III- Một số thành tựu, kết quả của tỉnh giai đoạn 2020-2025
1- Đánh giá tổng quát tình hình 5 năm (2020-2025)
5 năm qua, Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh tiếp tục phát huy truyền thống quê hương cách mạng, giữ vững đoàn kết, chủ động, sáng tạo, bám sát mục tiêu, phương châm của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII; vượt qua khó khăn, thách thức, khai thác tiềm năng, lợi thế và huy động nguồn lực, tập trung vào các khâu đột phá, các chương trình trọng tâm, đạt được nhiều thành tựu, kết quả, trong đó có nhiều dấu ấn nổi bật trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, đến nay, các chỉ tiêu chủ yếu đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020-2025 cơ bản hoàn thành, nhiều chỉ tiêu vượt mục tiêu ở mức cao, cụ thể như sau:
(1) Tốc độ tăng tổng sản phẩm bình quân 05 năm đạt 8,01% (Nghị quyết đề ra đạt trên 8%).
(2) Tổng sản phẩm bình quân đầu người đạt 65,76 triệu đồng (Nghị quyết đề ra đạt 64 triệu đồng).
(3) Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 05 đạt 8,23% (Nghị quyết đề ra đạt 8%).
(4) Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 05 năm đạt 14,9% (Nghị quyết đề ra đạt 14%).
(5) Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng bình quân 05 năm đạt 5,1% (Nghị quyết đề ra đạt 4%).
(6) Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 77,7% (Nghị quyết đề ra có 68%); có thêm 02 huyện (Hàm Yên, Sơn Dương) đạt chuẩn nông thôn mới (Nghị quyết đề ra có thêm 01 huyện).
(7) Thu hút 3,0 triệu lượt khách du lịch (Nghị quyết năm 2025 thu hút 2,6 triệu lượt khách du lịch).
(8) Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt trên 5.405 tỷ đồng (Nghị quyết đề ra là trên 4.000 tỷ đồng).
(9) Tỷ lệ đô thị hóa đạt 27,12% (Nghị quyết đề ra là trên 27%).
(10) Duy trì 100% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2 trở lên, phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3, phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia ở các cấp học: Mầm non đạt 58,6% (Nghị quyết 53%), Tiểu học đạt 79,3% (Nghị quyết 70%), Trung học cơ sở đạt 75,5% (Nghị quyết 70%), Trung học phổ thông đạt 37,1% (Nghị quyết 35%). Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 72% (Nghị quyết 72%), trong đó 30% có bằng, chứng chỉ (Nghị quyết 30%).
(11) Có 93,5% hộ gia đình đạt gia đình văn hóa (Nghị quyết đề ra trên 90%); 95% thôn, tổ dân phố đạt thôn, tổ dân phố văn hóa (Nghị quyết đề ra trên 80%); 95% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa (Nghị quyết đề ra trên 95%).
(12) Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi (chiều cao theo tuổi) giảm xuống 19,7% (Nghị quyết dưới 20%); 100% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí Quốc gia về y tế xã (Nghị quyết 100%); có 10 bác sỹ và 44 giường bệnh/10.000 dân (Nghị quyết 10 bác sĩ và 35 giường bệnh/10.000 dân).
(13) Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều bình quân giảm 4%/năm (Nghị quyết giảm bình quân 2-2,5%/năm).
(14) Tỷ lệ che phủ rừng đạt trên 65% (Nghị quyết đề ra là trên 65%); tỷ lệ dân cư thành thị được sử dụng nước sạch đạt 99% (Nghị quyết đề ra là trên 99%); tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 98% (Nghị quyết đề ra là trên 98%); tỷ lệ chất thải nguy hại, chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn đạt 100% (Nghị quyết đề ra là trên 100%); tỷ lệ chất thải rắn thông thường được xử lý đạt tiêu chuẩn đạt 96% (Nghị quyết đề ra là trên 96%).
(15) Hằng năm có trên 90% (Nghị quyết đề ra là 90%) tổ chức cơ sở đảng, đảng viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị; trên 90% (Nghị quyết đề ra là 85%) đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức “Hoàn thành tốt nhiệm vụ” trở lên.
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm năm 2024 đạt 9,04% là mức tăng trưởng cao nhất của tỉnh trong 10 năm gần đây. Kinh tế tiếp tục phát triển. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có nhiều chuyển biến tích cực; an sinh xã hội được đảm bảo; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân tiếp tục được nâng lên. Quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị được triển khai toàn diện, đồng bộ, hiệu quả.
2- Một số thành tựu, kết quả trên các lĩnh vực
2.1- Lĩnh vực kinh tế
2.1.1- Công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá, có bước phát triển, tập trung vào một số ngành có tiềm năng, lợi thế. Hiện nay toàn tỉnh có 04 sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia Việt Nam: 02 sản phẩm Giấy và Bột giấy của Công ty cổ phần Giấy An Hoà (năm 2022); 02 sản phẩm Ván sàn Woodsland và Đồ gỗ nội, ngoại thất Woodsland của Công ty cổ phần Woodsland Tuyên Quang (năm 2024). Chú trọng phát huy tiềm năng để phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế, như: Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản gắn với vùng nguyên liệu; phát triển công nghiệp điện với 07 nhà máy đang phát điện...
Quy hoạch 24 cụm công nghiệp với tổng diện tích 1.113 ha và 05 khu công nghiệp trong thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 02 Khu công nghiệp, 06 cụm công nghiệp hoạt động.
2.1.2- Sản xuất nông, lâm nghiệp; xây dựng nông thôn mới
Sản xuất nông lâm nghiệp hàng hóa gắn với xây dựng nông thôn mới có nhiều chuyển biến tích cực, tập trung vào các sản phẩm chủ lực, sản phẩm đặc sản bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng, giá trị gia tăng cao. Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có bước chuyển dịch tích cực theo hướng đẩy mạnh sản xuất các loại nông sản hàng hóa có nhu cầu thị trường và giá trị kinh tế cao, hiện nay toàn tỉnh có 275 sản phẩm OCOP xếp hạng từ 3 sao trở lên; 07 sản phẩm đạt tiêu chuẩn, xuất khẩu sang thị trường Vương quốc Anh. Kinh tế lâm nghiệp phát triển khá nhanh và vững chắc; thực hiện quản lý rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học; tỷ lệ che phủ của rừng trên 65%, đứng thứ 3 cả nước.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả tích cực, với nhiều cách làm sáng tạo, nhất là về huy động nguồn lực, được Nhân dân đồng thuận ủng hộ; diện mạo nông thôn có nhiều đổi mới, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2024 đạt 39 triệu đồng/năm (tăng 1,3 lần so với năm 2020); có thêm 47 xã đạt chuẩn nông thôn mới (tăng gấp 2 lần so với năm 2020), nâng số xã đạt chuẩn nông thôn mới lên 94/121 xã, chiếm 77,7% tổng số xã của tỉnh.
2.1.3- Du lịch, thương mại dịch vụ; thu hút đầu tư
Phát huy hiệu quả các tiềm năng, lợi thế để phát triển du lịch, thúc đẩy thương mại, dịch vụ. Du lịch của tỉnh có bước chuyển tích cực, bắt nhịp với xu hướng phát triển của cả nước, từng bước trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh. Số lượng khách du lịch tăng cao, từ đầu nhiệm kỳ đến nay đạt gần 13 triệu lượt khách, tăng 176% so với năm 2020, tổng doanh thu xã hội từ du lịch đạt trên 16 nghìn tỷ đồng.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng hằng năm đạt và vượt kế hoạch: Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng: Năm 2021 đạt 27.230 tỷ đồng; năm 2022 đạt: 30.129 tỷ đồng, năm 2023 đạt 37.078 tỷ đồng; năm 2024 ước đạt 35.000 tỷ đồng; dự kiến năm 2025 đạt 37.000 tỷ đồng. Giá trị xuất khẩu hàng hóa giai đoạn 2021-2025 tăng bình quân 8%.
2.1.4- Kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị động lực và hạ tầng công nghệ thông tin
Hoàn thành Dự án đường cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ kết nối với cao tốc Nội Bài - Lào Cai; triển khai đầu tư xây dựng cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang (giai đoạn 1); 02 tuyến đường kết nối liên vùng: Đường Hồ Chí Minh đoạn Chợ Chu - Ngã ba Trung Sơn, đường từ hồ Ba Bể, Bắc Kạn đến hồ thuỷ điện Na Hang, Lâm Bình; 08 tuyến đường kết nối nội vùng; nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhiều tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ.
Hoàn thành mục tiêu: 100% đường từ trung tâm huyện đến trung tâm xã được nhựa hóa, bê tông hóa; 100% thôn, bản có đường ô tô đến trung tâm; bê tông hóa trên 80% đường giao thông nông thôn, 65% đường nội đồng và xây dựng 200 cầu trên đường giao thông nông thôn; đầu tư các trục đường đô thị tại các huyện, thành phố; các cầu Bạch Xa qua sông Lô, cầu Xuân Vân qua sông Gâm...; cơ bản đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoá của Nhân dân. Hạ tầng công nghệ thông tin và các nền tảng ứng dụng số được quan tâm đầu tư theo hướng đồng bộ, liên thông, hiện đại. Hệ thống thông tin điều hành thông suốt từ tỉnh đến cơ sở.
2.1.5- Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số
Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ trên các lĩnh vực theo hướng tăng tính ứng dụng trong thực tiễn. Chú trọng xây dựng và phát triển thương hiệu, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, chỉ dẫn địa lý: Hiện nay, toàn tỉnh có 412 sản phẩm, dịch vụ được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; trong đó, có trên 80 sản phẩm nông sản chủ lực, đặc sản được cấp Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu và 04 sản phẩm được cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý.
Triển khai đồng bộ các giải pháp thực hiện công tác chuyển đổi số bảo đảm đồng bộ và toàn diện trên cả 3 trụ cột: Chính quyền số, Kinh tế số và Xã hội số. Số lượng giao dịch giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử ngày càng tăng: Tỷ lệ văn bản điện tử trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước đạt 100%; trên 3.000 chữ ký số chuyên dùng của Chính phủ đã được cấp cho các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh; 100% công chức trong các cơ quan nhà nước từ cấp tỉnh tới cấp xã được gắn định danh số trong xử lý công việc...Toàn tỉnh đã thành lập 1.868 Tổ Công nghệ số cộng đồng (đạt 100% xã có Tổ công nghệ số cộng đồng).
2.1.6- Cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh
Chất lượng cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh và cấp huyện tiếp tục được nâng lên, chất lượng phục vụ, giải quyết thủ tục hành chính được nâng cao: Năm 2023, chỉ số cải cách hành chính (PARINDEX) của tỉnh đạt 88,46% (xếp thứ 16/63 tỉnh, thành phố, tăng 19 bậc so với năm 2020). Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS) cấp tỉnh đạt 82,83% (xếp thứ 26/63 tỉnh, thành phố, tăng 23 bậc so với năm 2020). Đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến, cung cấp 1.889 thủ tục hành chính trên Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tỉnh.
Tích cực, chủ động làm việc với các tập đoàn, doanh nghiệp để thu hút đầu tư vào tỉnh. Giai đoạn 2021-2025, đã phê duyệt chủ trương đầu tư cho 78 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt trên 32.453 tỷ đồng.
2.2- Lĩnh vực văn hóa - xã hội
2.2.1- Giáo dục và đào tạo
Tiếp tục được đổi mới và nâng cao chất lượng, đạt nhiều kết quả quan trọng. Chất lượng giáo dục có chuyển biến tích cực và đạt được một số thành tích nổi bật: Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp THPT hằng năm đều đạt trên 98%. Giai đoạn 2021-2025, đạt 167 giải học sinh giỏi cấp quốc gia; cuộc thi Khoa học kĩ thuật cấp quốc gia: Từ năm 2021 đến 2024, toàn tỉnh đạt 02 giải Nhất, 04 giải Ba; 02 dự án được lựa chọn dự thi quốc tế tại Hoa Kỳ...; giữ vững và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục các cấp học. Huy động 52,1% trẻ trong độ tuổi đi nhà trẻ, nằm trong top 10 tỉnh cao nhất cả nước.
2.2.2- Y tế, chăm sóc sức khỏe Nhân dân
Triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án “Nâng cao năng lực ngành y tế tỉnh Tuyên Quang giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030”, chất lượng công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe Nhân dân được nâng lên. Công suất sử dụng giường bệnh các bệnh viện tuyến tỉnh và huyện trung bình hằng năm đạt trên 100%; tổng số lượt khám bệnh hàng năm trên 1,5 triệu lượt người, trung bình đạt khoảng 1,8 lượt/người/năm. Quan tâm y tế cơ sở, 100% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã.
Bảo hiểm y tế toàn dân tiếp tục được đẩy mạnh thực hiện, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 96%, quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế được bảo đảm. Công tác vệ sinh môi trường, bảo đảm an toàn thực phẩm được thực hiện thường xuyên, không để xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm đông người.
2.2.3- Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Tuyên Quang
Quan tâm chỉ đạo, thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp về phát triển văn hoá, con người, xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Tuyên Quang phát triển toàn diện. Ban hành Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Tuyên Quang đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững.
Công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lịch sử, văn hoá truyền thống được tăng cường. Nhiều di sản văn hoá được bảo tồn, tôn tạo, lập hồ sơ xếp hạng: 18 di tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh, 03 di tích được xếp hạng di tích quốc gia, 09 di tích được bổ sung vào Danh mục di tích toàn tỉnh; 08 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
2.2.4- Lao động việc làm và an sinh xã hội
Thực hiện kịp thời, hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh gắn với công tác giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội. Kết quả giảm tỷ lệ hộ nghèo hằng năm vượt mục tiêu đề ra: Năm 2025 tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều toàn tỉnh còn dưới 10%.
Công tác đảm bảo an sinh xã hội được quan tâm triển khai thực hiện với tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Các chương trình, đề án xóa nhà ở tạm, dột nát trên địa bàn tỉnh được triển khai tích cực, nhận được sự đồng thuận và tham gia của toàn xã hội: Giai đoạn 2021-2025, toàn tỉnh đã hỗ trợ xóa nhà ở tạm, dột nát cho 13.995 hộ (gồm làm mới và sửa chữa), với tổng kinh phí trên 1.255 tỷ đồng (trong đó: 7.067 hộ đã thực hiện theo Đề án 308; 6.928 hộ dự kiến thực hiện theo Kế hoạch xoá nhà tạm, nhà dột nát trong năm 2025).
2.3- Quốc phòng - an ninh; đối ngoại
Củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo vững chắc. Triển khai đồng bộ các chủ trương về kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy trong lực lượng vũ trang đảm bảo tinh, gọn, mạnh. Xây dựng 247 mô hình với 793 điểm hoạt động; 166 xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị điển hình về Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Bố trí 835 cán bộ Công an xã chính quy, đạt tỷ lệ trung bình 6,61 người/01 xã, thị trấn. Thành lập 1.731 tổ bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở với 5.193 thành viên.
Hoạt động đối ngoại tiếp tục được củng cố và mở rộng. Các hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế gắn với xúc tiến đầu tư đạt được kết quả tích cực; mở rộng hợp tác với các đối tác mới, tiềm năng, đặc biệt các đối tác khu vực Đông Bắc Á, Châu Âu... Ngoại giao văn hóa, đối ngoại nhân dân được chú trọng, góp phần thu hút các nguồn lực nước ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và lan tỏa các giá trị văn hóa, vẻ đẹp của Tuyên Quang đến bạn bè quốc tế.
2.4- Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Đảng bộ tỉnh luôn được đặt đúng vị trí “then chốt”, triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ cả về “xây” và “chống” với quyết tâm chính trị cao, khẳng định nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII.
Công tác xây dựng Đảng về chính trị được chú trọng; xây dựng Đảng về tư tưởng tiếp tục được đổi mới, coi trọng chất lượng; xây dựng Đảng về đạo đức được đề cao. Việc xây chuẩn mực đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới được triển khai, thực hiện phù hợp, hiệu quả. Thực hiện có hiệu quả công tác quán triệt, học tập các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tỷ lệ đảng viên học tập nghị quyết của Đảng đạt trên 97%.
Triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả chủ trương về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị theo Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triển khai quyết liệt, đồng bộ và đạt được những kết quả quan trọng, tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị của tỉnh được sắp xếp tinh gọn hơn, giảm nhiều cơ quan, đơn vị và đầu mối bên trong, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ; công tác bảo vệ chính trị nội bộ; công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng được tăng cường, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có nhiều chuyển biến tích cực.
Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành toàn diện, đồng bộ nhiều chủ trương, nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; năng lực cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng được nâng lên, bảo đảm chủ động, sáng tạo, linh hoạt, xác định rõ các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, bám sát chỉ đạo của Trung ương và yêu cầu thực tiễn.