Triết lý phát triển Hồ Chí Minh là những lý lẽ mang tính khái quát, là kết quả của sự suy nghĩ, chiêm nghiệm, đúc kết thành những quan điểm, luận điểm, mệnh đề, phương châm, những câu châm ngôn ngắn gọn, súc tích, bao chứa ý nghĩa sâu xa và cốt lõi nhất về bản chất, nguyên nhân, động lực, điều kiện, khuynh hướng của sự vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển xã hội. Những triết lý phát triển của Người đều đã được thực tiễn kiểm nghiệm, thừa nhận, coi đó là nguyên tắc xử thế, phương châm sống và định hướng hành động cho mỗi người; được thế giới tiến bộ không ngừng tôn vinh và ca ngợi. Điều đó tự nó phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, phản động về di sản Hồ Chí Minh và triết lý phát triển của Người.
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa, kết hợp và phát triển sáng tạo những tinh hoa triết lý phát triển dân tộc, nhân loại và thời đại.
Trong toàn bộ di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thuật ngữ “phát triển” được sử dụng hơn 1.500 lần, cho thấy lý tưởng sâu xa của Người là một quá trình phát triển liên tục và không ngừng hoàn thiện. Người đã kế thừa, phát triển sáng tạo những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, phương Đông và phương Tây. Từ triết lý yêu nước của dân tộc, Người phát triển lên thành triết lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Từ triết lý nhân nghĩa, “lá lành đùm lá rách”, Người đúc kết: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” và “Quan sơn muôn dặm một nhà,/Bốn phương vô sản đều là anh em!”. Từ triết lý “thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa” của triết lý phương Đông, Người đã vận dụng và kế thừa phát triển sáng tạo thành triết lý “... ở đâu có dân là ở đó có núi, có sông, có biển. Dân có sức mạnh hơn cả sông núi. Nếu ta biết dựa vào dân thì sẽ thành công”(2). “Triết lý đạo Khổng và triết lý phương Tây đều tán dương một nguyên tắc đạo đức: ”Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều mà mình không muốn thì đừng làm cho người khác)”(3), đã hình thành triết lý phát triển của Người: “Việt Nam độc lập, cùng Trung, Nam, Bắc thống nhất”(4). Do đó, nhà báo Giăng-ru-xơ (Pháp) đánh giá Người “luôn là một Lãnh tụ Găng-đi mác-xít... đại diện cho triết lý Á Đông”(5).
Người khẳng định: “Xã hội bây giờ ngày một phát triển. Tư tưởng hành động cũng phát triển. Nếu cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay đổi là không đi đến đâu cả”(6). Khác với những quan điểm có tính áp đặt, méo mó, hoài nghi, thì Người hướng đến một chế độ xã hội nhân văn, giàu tính hiện thực, “không có người bóc lột người, mọi người sung sướng, vẻ vang, tự do, bình đẳng, xứng đáng là thế giới của loài người”(7). Điều đó chứng minh Người đã nỗ lực mang lại giá trị con người - giá trị văn hóa - giá trị xã hội cho dân tộc và thời đại.

Lắng nghe lời Bác dạy _Tranh tư liệu
Người thực hiện rất độc đáo và rất thành công phương thức kết hợp giữa giá trị của triết lý dân tộc - nhân loại - thời đại, chuyển hóa cái ngoại sinh thành yếu tố nội sinh. Người nói: “Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau”(8); “Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta, ta khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta”(9). Đó là chủ nghĩa Mác - Lê-nin; tư tưởng tự do, bình đẳng và bác ái, tư tưởng dân chủ và nhân quyền; giá trị của Nho giáo, chủ nghĩa tam dân,… kết hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc tạo nên “sức mạnh mềm”, “quyền lực mềm” của Việt Nam. Dù “sức mạnh mềm” chưa được Hồ Chí Minh nói đến, nhưng đã in đậm trong di sản của Người thông qua hệ giá trị văn hóa, chính trị, ngoại giao, tự lực, tự cường của Việt Nam, góp phần tạo lập vị thế, sức hút, lan tỏa với thế giới. Đúng như Geetesh Sharma (Ấn Độ) nhận xét: “Viễn kiến của Người, tư tưởng và triết học của Người có thể nói là không lệ thuộc vào bất cứ chủ nghĩa phức tạp nào... Người chỉ học những giá trị hay nhất, tinh túy nhất, chứ không áp dụng một cách rập khuôn, máy móc”(10).
Lịch sử thế giới cũng như Việt Nam đã chứng minh thực tế: sự sùng ngoại hoặc bài ngoại đều là sai lầm về mặt nhận thức, dẫn đến sự trì trệ trong sự phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ lên án chế độ thực dân, đế quốc, mà Người còn nghiên cứu và ngưỡng mộ những thành tựu, tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng vĩ đại và mặt tích cực của văn hóa tư sản, của tư tưởng chính trị nhiều nước Âu, Phi, Mỹ, Á. Cho nên, không phải vô cớ mà Người đã trịnh trọng trích dẫn lời kết tinh bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập (1776) của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (1791) của Pháp trong Tuyên ngôn độc lập (1945) của Việt Nam.
Người đã viết nhiều thư, điện văn đến Liên hợp quốc, chính phủ và các tổ chức quốc tế khác với phương châm “cầu đồng, tồn dị” và khẳng định Việt Nam mong muốn bình đẳng, hợp tác và cùng phát triển, như: Với Mỹ, Người “bày tỏ sự biết ơn chân thành” về những tuyên bố 12 điểm trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ mà Tổng thống Truman đã đưa ngày 17-10-1945 và Người viết thư tới Bộ trưởng Ngoại giao Giêm Biếc-nơ ngày 1-11-1945 với nguyện vọng gửi 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ để thiết lập quan hệ và học tập chuyên môn; với Pháp vì cùng “yêu chuộng công lý và tự do, quan tâm đến văn hóa, đến sự nảy nở của những tư tưởng đạo lý”(11) sẽ khiến hai dân tộc xích lại gần nhau; với In-đô-nê-xi-a, Người viết: “Nước xa mà lòng không xa/Thật là bầu bạn, thật là anh em!”(12);... Chính những bài viết của Người vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX đã mở đường cho việc nghiên cứu về Hoa Kỳ. Vì vậy, đối với Người, thì sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố của dân tộc và quốc tế là một tất yếu lịch sử.
Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường phát triển của cách mạng Việt Nam theo đúng quy luật phát triển.
Cống hiến mang tính đột phá lý luận về cách mạng Việt Nam của chủ tịch Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ việc thấm nhuần lý luận về sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tính tất yếu về sự tiến bộ của xã hội loài người: “Không có lực lượng gì ngăn trở được mặt trời mọc. Không có lực lượng gì ngăn trở được lịch sử loài người tiến lên. Cũng không có lực lượng gì ngăn trở được chủ nghĩa xã hội phát triển”(13).
Trong quá trình trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người nỗ lực thực hiện các mục tiêu giải phóng, đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Người khẳng định mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội thể hiện ở việc xóa bỏ sự áp bức, bất công, “không có người bóc lột người, mọi người sung sướng, vẻ vang, tự do, bình đẳng, xứng đáng là thế giới của loài người”(14).
Lãnh tụ Hồ Chí Minh bàn đến những động lực phát triển - một phức hợp những nhân tố về vật chất và tinh thần, truyền thống và hiện đại, chủ quan và khách quan, trong nước và quốc tế. Trong 24 năm lãnh đạo một Đảng cầm quyền (1945 - 1969), Người có gần 30 bài viết, lời kêu gọi tập trung bàn về thi đua yêu nước và khẳng định cùng với việc “thiết thực tự phê bình và phê bình” là “thang thuốc hay nhất” để loại bỏ những trở lực kìm hãm sự phát triển. Người đã nói tới 15 lần triết lý trong câu tục ngữ: “rừng vàng biển bạc” nhấn mạnh đến những nguồn lực vật chất thuận lợi để phát triển đất nước, nhưng không được chủ quan ỷ lại vào nguồn tài nguyên sẵn có, mà mỗi người phải biết tự hào dân tộc, nâng cao lòng yêu nước và ý thức bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển bền vững dài lâu cho thế hệ sau. Vì vậy, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(15).
Thành công của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tư duy phát triển con đường cách mạng là sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa cái phổ biến của thế giới với cái đặc thù của Việt Nam để thực hiện con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở một nước nghèo nàn, kém phát triển. Người thấu triệt sâu sắc và vận dụng linh hoạt những giá trị kinh điển phương Đông (bài học về cải cách, canh tân), tư tưởng đổi mới phương Tây (đặc biệt là triết học Khai sáng Pháp) và kế thừa, tiếp thu trực tiếp chủ nghĩa Mác - Lê-nin về tư tưởng đổi mới.
Tư duy đổi mới của Người luôn bắt mạch từ thực tiễn và làm theo quy luật khách quan, giải quyết hiệu quả những đòi hỏi đặt ra theo nguyên tắc “chân lý là cụ thể nên cách mạng phải sáng tạo”, để kế thừa và phát triển, chứ không phủ nhận sạch trơn, không lý luận tư biện hay thực tiễn mù quáng. Từ những kiến giải đúng đắn trong lịch sử Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực tiễn gần 40 năm Đảng lãnh đạo đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(16). Điều đó khẳng định triết lý phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành mạch nguồn triết lý phát triển Việt Nam tầm nhìn đến năm 2045 về một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, là nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng đúng quy luật phát triển của loài người.

Tổng Bí thư Tô Lâm và các đại biểu xem tài liệu, hiện vật được trưng bày tại di tích Nhà sàn Bác Hồ_Ảnh: TTXVN
Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường phát triển của cách mạng Việt Nam đáp ứng khát vọng của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra mục tiêu của cách mạng là: bắt đầu từ nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân và trở về với nhân dân. Người khẳng định nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là trung tâm, vừa là nhân tố quyết định của sự phát triển; có lực lượng dân chúng thì việc to tát mấy, khó khăn đến đâu cũng giải quyết được. Người không chỉ mong muốn độc lập cho dân tộc, mà quan trọng hơn là làm sao để nhân dân được hưởng hạnh phúc thực sự.
Triết lý về thực hành phép biện chứng của Người được thể hiện qua hệ giá trị bền vững là yêu nước - đoàn kết - dân chủ - thi đua. Người nói “có đoàn kết mới có lực lượng, có lực lượng mới giành được ĐỘC LẬP, TỰ DO”(17); “sức mạnh của ý chí quyết thắng của toàn dân, lại được sự ủng hộ ngày càng tăng của nhân dân thế giới”(18). Con người là nguồn lực vô tận tạo nên thắng lợi vĩ đại: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”(19) (chủ thể); “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của hàng triệu con người”(20); Người coi dân chủ là “của quý báu”, “chìa khóa vạn năng” (giá trị) của sự phát triển, bởi vì “có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”(21), nên phải mở rộng dân chủ, tranh thủ trí tuệ và động lực con người, tránh “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Người nói: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất”(22) (hoạt động). Phương thức để phát triển là phát huy mối quan hệ mật thiết giữa chủ thể - giá trị - hoạt động con người.
Người chỉ rõ: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(23). Người đã ý thức rằng: Độc lập, tự do là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển và hạnh phúc con người, nhưng việc “thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều”(24). Lý tưởng sâu xa của Người là một quá trình liên tục nhằm hoàn thiện hạnh phúc con người, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là khát vọng của Đảng và nhân dân Việt Nam.
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là mục tiêu xuyên suốt và cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm hướng đến hệ giá trị cho nhân dân, là triết lý phát triển cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Đúng như Xê-ra-phin Ki-a-xơn (Phi-líp-pin) đánh giá: “Hiếm người châu Á nào lại đóng một vai trò quan trọng như vậy trong việc tạo dựng một dân tộc mới như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong cả sự nghiệp của mình, Người luôn luôn xuất phát từ tinh thần hết lòng phục vụ nhân dân, vừa bằng những kiến thức uyên bác, kinh nghiệm và tài nghệ của mình, vừa bằng sự tận tâm và liêm khiết, để giành được sự kính trọng và biết ơn của nhân dân… Người thực sự là một người châu Á của tất cả các thời đại với ý nghĩa đầy đủ nhất của nó”(25).
Thứ tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường phát triển của cách mạng Việt Nam hợp với thời đại.
Ngay từ năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước gửi “Yêu sách của nhân dân An Nam” đến Hội Quốc liên (tiền thân của Liên hợp quốc) họp tại Véc-xây (Pháp) đòi các quyền dân tộc cơ bản cho dân tộc Việt Nam. Nhân dịp Liên hợp quốc họp khóa đầu tiên tại Luân Đôn (Anh), ngày 14-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện văn tới ông Ăng-ri X-pa-ắc (Chủ tịch Hội đồng Liên hợp quốc) khẳng định Việt Nam quyết tâm chiến đấu chống phát xít, thực dân và bày tỏ nguyện vọng “quốc dân Việt Nam đang ao ước thực hiện các điều khoản cao quý của Hiến chương Đại Tây Dương và Hội nghị Liên hợp quốc” nhằm bảo đảm, đề cao nền độc lập, công lý, hòa bình và “nhận chúng tôi vào Hội đồng Liên hợp quốc”(26). Dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, Việt Nam gương cao ngọn cờ độc lập, hiện thực hóa quyền con người, nỗ lực cải thiện quan hệ hợp tác, nhất quán trong mục tiêu phát triển và dần trở thành quốc gia tích cực và có trách nhiệm quốc tế. Vì vậy, hơn 30 năm sau, ngày 20-9-1977, Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của Liên hợp quốc.
Tháng 5-1954, chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã tạo ra thời cơ, vận hội lớn với quyết tâm cho Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Đến tháng 12-1954, khi nhà báo Lơ-roa An-xen (Mỹ) hỏi: Trong năm sắp tới, triết lý nào sẽ hướng dẫn Ngài để mang lại nền hòa bình và thịnh vượng cho những nước châu Á mà mọi người mong muốn? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời: “Trong chính sách đối ngoại, triết lý hướng dẫn chúng tôi là sự thực hiện 5 nguyên tắc chung sống hòa bình”(27) (còn gọi là 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình được đề ra lần đầu trong Hiệp định giữa Ấn Độ và Trung Quốc vào tháng 4-1954, gồm: 1. Tôn trọng lãnh thổ toàn vẹn và chủ quyền của nhau; 2. Không tiến công nhau; 3. Không can thiệp vào công việc của nhau; 4. Bình đẳng và cùng có lợi; 5. Cùng tồn tại hòa bình).
Ngày 18-4-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Chúc mừng hội nghị Á - Phi bày tỏ sự nhất trí cao và quyết tâm đoàn kết lực lượng của 29 nước Á - Phi (đại diện cho 1.440 triệu người) trong đấu tranh vì tự do, độc lập và Tuyên bố chung 10 nguyên tắc chung sống hòa bình. Trên thực tế, Hội nghị trở thành động lực mở đường cho 17 nước châu Phi được giải phóng khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân (vào năm 1960, nên được gọi là Năm châu Phi), tạo tiền đề cho việc thành lập Phong trào Không liên kết (1961), Nhóm G77 (1964) và hợp tác Nam - Nam; đặc biệt, Hội nghị đã đặt nền tảng cho sự kiện Đại Hội đồng Liên hợp quốc khóa XV (1960) thông qua “Bản Tuyên ngôn về phi thực dân hóa”. Đến năm 1990, Liên hợp quốc quyết định Thập kỷ quốc tế về xóa bỏ chủ nghĩa thực dân giai đoạn 1990 - 2000, đến năm 2001 thông qua Thập kỷ quốc tế thứ hai về xóa bỏ chủ nghĩa thực dân giai đoạn 2001 - 2010 và đến năm 2010 thì phát động Thập kỷ quốc tế thứ ba loại trừ chủ nghĩa thực dân giai đoạn 2011 - 2020 và chọn ngày 14-12 là Ngày kỷ niệm thứ 50 Tuyên bố lịch sử trao quyền độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ tìm đường, lựa chọn con đường cho cách mạng Việt Nam độc lập, thống nhất mà còn cho thời đại “một phương pháp để thức tỉnh hàng trăm triệu con người bị áp bức trong các nước thuộc địa và lạc hậu, mà số dân các nước này chiếm tới hơn 2/3 trong tổng số loài người vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Điều này khẳng định Hồ Chí Minh trước hết và chủ yếu là nhà cách mạng góp phần kiến tạo thế giới ngày nay, một cống hiến lớn mà loài người mãi mãi không thể quên”(28). Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã có những kiến giải thực tiễn đặc sắc góp phần xây dựng sự đồng thuận quốc tế về nền độc lập, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và sự phát triển bền vững của thế giới.
Năm 1979, xuất phát từ nhu cầu loài người và xu thế phát triển văn minh của nhân loại mà Liên hợp quốc đã tập hợp các học giả đại diện của 17 nước họp bàn về triết lý phát triển nhân loại trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động. Đến năm 2002, Liên hợp quốc đã thông qua 8 mục tiêu phát triển Thiên nhiên kỷ; đến năm 2015, 193 quốc gia tham gia Liên hợp quốc thông qua 17 mục tiêu phát triển bền vững nhằm bảo đảm con người được hưởng hòa bình và thịnh vượng đến năm 2030. Vì vậy, Đa-vít Han-bơ-xtam đã nhận xét: “Bằng sự lãnh đạo và sáng suốt của mình, Cụ Hồ Chí Minh đã giúp biến đổi cả một thời đại”(29).
Như vậy, những cống hiến to lớn không thể phủ nhận về triết lý phát triển Hồ Chí Minh đã thể hiện sự kết tinh trí tuệ, sáng tạo của “một người quốc tế vĩ đại với nhãn quan thế giới”(30) đóng góp cho triết lý phát triển Việt Nam và loài người./.
TS.Lê Trung Kiên/tapchicongsan.org.vn
---------------------------
(1) Lady Borton: Hồ Chí Minh – Một hành trình, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2012, tr. 21
(2) Chuyện kể về Bác Hồ, Nxb. Nghệ An, 1977, tr. 79
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 4, tr. 304
(4), (11), (23), (26) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 468, 328, 175, 180
(5) Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam: Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc danh nhân văn hóa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr. 332
(6), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 55, 273
(7), (12), (14), (20), (24) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 70, 250, 70, 55, 402
(9), (19), (27) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 56-57, 453, 228
(10) Hà Minh Đức: Hồ Chí Minh - Anh hùng dân tộc và tầm thời đại của Người, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr. 356
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 158
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr. 34
(16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 25
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 595
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 330
(21) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 284
(22) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 407
(25) Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr. 106 - 107
(28) Phan Ngọc Liên (Chủ biên): Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh với thời đại, Nxb. Lao Động, Hà Nội, 1993, tr. 33
(29) Viện Quan hệ quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990, tr. 242
(30) Đánh giá của W. E. Gollan, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Úc, trong sách của Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh sống mãi với dân tộc Việt Nam và bầu bạn quốc tế, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr. 156