Tuyên Quang là vùng đất chứng kiến nhiều sự kiện trọng đại của lịch sử cách mạng Việt Nam, nơi từng là “Thủ đô Khu giải phóng” trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, “Thủ đô Kháng chiến” trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở Tuyên Quang lãnh đạo cách mạng trong gần 6 năm. Tại đây, Người đã viết nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó có tác phẩm “Dân vận”, đồng thời là nơi minh chứng cho giá trị lý luận và thực tiễn về công tác dân vận một cách sâu sắc, thành công nhất.

Ảnh minh họa: Tất Thắng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(1); “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”(2), vì vậy, công tác vận động Nhân dân được đặc biệt coi trọng. Người cho rằng: công tác dân vận là nhiệm vụ cơ bản, có ý nghĩa chiến lược nhằm tuyên truyền, giáo dục, vận động, tập hợp tất cả lực lượng trong Nhân dân, hình thành khối đại đoàn kết dân tộc để tạo nên sức mạnh của Đảng. Năm 1949, tại Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang, Người viết tác phẩm Dân vận. Tác phẩm được coi như bản tuyên ngôn, cương lĩnh, kim chỉ nam về công tác dân vận của Đảng. Người phân tích: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”(3)
Để công tác dân vận đạt hiệu quả, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải có chủ trương đúng, kế hoạch cụ thể và phương tiện thích hợp để tuyên truyền rộng rãi chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, động viên toàn dân tham gia cách mạng. Lực lượng phụ trách công tác dân vận là “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân…”(4). Khi làm công tác dân vận, phải giải thích rõ để người dân hiểu việc đó đem lại lợi ích cho Nhân dân, đồng thời cũng là trách nhiệm của mỗi người, để họ làm một cách hăng hái, tự nguyện. Cán bộ dân vận cần bàn bạc với dân, hỏi ý kiến dân, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích, đồng thời kiểm thảo công việc, rút kinh nghiệm những việc làm được và chưa được, kịp thời nhắc nhở hoặc khen thưởng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”(5), Người yêu cầu cán bộ làm công tác dân vận phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”(6) thì mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang của mình.
Là tác giả của tác phẩm nổi tiếng “Dân vận”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người thực hành tư tưởng dân vận thành công nhất, là tấm gương mẫu mực trong thực hiện nhiệm vụ dân vận. Người thực sự gần dân, tin dân, yêu dân, kính dân, phục dân, vừa là người đồng hành, dẫn dắt, vừa là người bạn, người thân trong gia đình mỗi người dân. Với tác phong giản dị, ân cần, chan hòa, gần gũi, mỗi lời nói, cử chỉ, hành động của Người đều có sức thuyết phục to lớn, sự cảm hóa kỳ diệu, được người dân tin tưởng. Những sáng kiến và đề xuất của dân đều được lắng nghe, chia sẻ, giải thích tận tình. Theo Người: “Dân hiểu, dân làm, thì việc khó đến đâu cũng làm được”(7).
Trong cách mạng Tháng 8/1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở, làm việc tại nhiều địa điểm khác nhau thuộc các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa. Quá trình đó, Người đã vận động Nhân dân tham gia cách mạng vô cùng hiệu quả. Nhân dân Tuyên Quang và các tỉnh trong chiến khu Việt Bắc đã làm tròn nhiệm vụ xây dựng, chiến đấu, bảo vệ tuyệt đối an toàn các cơ quan đầu não của Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng bào các dân tộc tỉnh Tuyên Quang tích cực tham gia phong trào “phòng gian, bảo mật”, tuần tra canh gác, lập trạm kiểm soát chặt chẽ các ngả đường, nêu cao khẩu hiệu ba không: không biết, không thấy, không nói… ; đóng góp hàng vạn ngày công, vận chuyển hàng ngàn tấn máy móc, tài liệu giúp các cơ quan di chuyển đến Tuyên Quang về địa điểm an toàn, quyên góp lương thực, thực phẩm, giúp các cơ quan nhanh chóng ổn định để làm việc. Người dân Tuyên Quang sẵn sàng thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”; “vườn không, nhà trống”, phá hoại các trục đường giao thông, các phương tiện địch lợi dụng để phục vụ chiến tranh xâm lược, gây cho quân Pháp nhiều khó khăn, lúng túng. Tích cực hưởng ứng chủ trương “cấy ruộng nuôi quân”, “hũ gạo nuôi quân”…, cung cấp hàng vạn tấn gạo, hàng ngàn tấn thực phẩm, cùng vải vóc, thuốc men và các nhu cầu thiết yếu cho cuộc kháng chiến. Sau năm 1954, Tuyên Quang tiếp tục đóng góp sức người, sức của cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ. Đất nước hòa bình, thống nhất, Tuyên Quang cùng cả nước bước vào công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Nhờ sự đồng tình, ủng hộ, tham gia, hưởng ứng của người dân, Tuyên Quang đã và đang đổi mới từng ngày trên con đường hội nhập và phát triển.
Phát huy truyền thống quê hương cách mạng, học tập và làm theo Bác, công tác dân vận tiếp tục được tỉnh coi trọng. Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước được đội ngũ cán bộ tuyên truyền đến người dân, vận động người dân nắm bắt, đồng thuận với chủ trương và đồng lòng thực hiện. Những chương trình, mục tiêu lớn, tác động trực tiếp đến cuộc sống người dân, cần sự tham gia, đóng góp và hưởng ứng của người dân như chương trình xây dựng nông thôn mới, giải phóng mặt bằng các công trình dự án, làm đường giao thông, chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát… đều có sự tham gia, hưởng ứng tích cực của người dân chắc chắn sẽ thành công tốt đẹp bởi “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”./.
Nguyễn Nhung
- Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQGST, Hà Nội, 2011, t10, tr 453
- (3) (4) (5)(6) Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t6, tr 232, 232, 233, 234, 233
- Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, NXBCTQGST, Hà Nội, 2016, t7, tr 118