Phát triển nhân lực khoa học, công nghệ: Kinh nghiệm của một số quốc gia khu vực Đông Bắc Á

Thứ Bảy, ngày 2 tháng 8 năm 2025 - 18:12 Đã xem: 218

Với chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ hiệu quả, các nước khu vực Đông Bắc Á đã phát huy được tiềm năng, lợi thế và vượt qua thách thức để xây dựng đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số quốc gia. Với những quốc gia đang bước vào giai đoạn mới với sự phát triển mạnh mẽ về khoa học, công nghệ, việc học hỏi kinh nghiệm từ thành công trong đào tạo và thu hút nguồn nhân lực khoa học, công nghệ chất lượng cao của các nước khu vực Đông Bắc Á là rất cần thiết.

Phát triển nhân lực khoa học, công nghệ của một số quốc gia khu vực Đông Bắc Á

Nhân lực khoa học, công nghệ là toàn bộ lực lượng lao động tham gia hoạt động khoa học, công nghệ, trong đó nhân lực nghiên cứu và phát triển (R&D) chiếm số lượng đáng kể. Nhìn chung, đây là lực lượng hiện đang làm việc hoặc trực tiếp tham gia hoạt động khoa học, kỹ thuật, được trả lương theo quy định của chính phủ, bao gồm nhà khoa học, kỹ sư, kỹ thuật viên và nhóm nhân viên hỗ trợ. Nguồn nhân lực này được coi là nguồn lực then chốt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, thực tiễn cho thấy các quốc gia ở khu vực Đông Bắc Á đã sớm đầu tư phát triển nguồn lực này và gặt hái được nhiều thành tựu.

Đơn cử như, Nhật Bản là quốc gia phát triển mạnh về khoa học, công nghệ và đã đạt được thành tựu lớn trong nghiên cứu chuyên sâu, mang lại thay đổi đáng kể cho nhân loại. Đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ Nhật Bản chiếm 1/4 tổng số lao động Nhật Bản, tập trung chủ yếu trong khu vực dịch vụ, nghiên cứu. Nhân lực khoa học, công nghệ Nhật Bản bao gồm ba nhóm: 1- Cán bộ nghiên cứu (nhà nghiên cứu khoa học, kỹ sư nghiên cứu); 2- Nhân viên kỹ thuật và tương đương; 3- Nhân viên phụ trợ trực tiếp trong nghiên cứu và phát triển (R&D).

Viện Công nghệ và Khoa học công nghiệp tiên tiến Nhật Bản (AIST) là một trong những viện nghiên cứu lớn nhất tại Nhật Bản (gần 2.000 nhà nghiên cứu cơ hữu, 50 nhà nghiên cứu có thời hạn, 700 cán bộ hành chính và 1.300 cán bộ kỹ thuật). Viện AIST đào tạo nhà khoa học có mục tiêu nghiên cứu phục vụ xã hội, sẵn sàng hợp tác với doanh nghiệp để phát triển công nghệ. Các nhà nghiên cứu của AIST theo đuổi “quy trình nghiên cứu đầy đủ”- tích hợp tất cả giai đoạn nghiên cứu, từ nghiên cứu cơ bản đến sản xuất. Chính phủ Nhật Bản đặc biệt chú trọng hoạt động R&D. Sự đầu tư của chính phủ, doanh nghiệp cho hoạt động R&D đã tạo nên bước nhảy vọt về kinh tế Nhật Bản trong thập niên 60 - 70 của thế kỷ XX. Hiện nay, Nhật Bản là một trong những quốc gia có nguồn vốn đầu tư lớn vào R&D.

Thành công của Nhật Bản là nhờ vào: 1- Coi trọng chính sách giáo dục và đào tạo. Nhật Bản đặc biệt coi giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm tạo dựng nguồn nhân lực chất lượng cao. Chính phủ triển khai các dự án, như Chương trình Global 30 (chương trình học bổng đặc biệt của Chính phủ Nhật Bản dành cho sinh viên quốc tế với mục đích quốc tế hóa môi trường học ở cấp đại học) và Dự án Đại học toàn cầu để thu hút sinh viên quốc tế, nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu, tạo điều kiện học tập tốt nhất cho học sinh, sinh viên; hỗ trợ tài chính cho sinh viên và đầu tư vào cơ sở vật chất giáo dục để bảo đảm môi trường học tập chất lượng; 2- Sự hợp tác chặt chẽ của chính phủ và doanh nghiệp để thúc đẩy nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ. Cung cấp khoản tài trợ, ưu đãi thuế và hỗ trợ chính sách để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào R&D; trường đại học và viện nghiên cứu hợp tác với doanh nghiệp để chuyển giao công nghệ và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất; hỗ trợ phát triển khu công nghệ cao, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận kết cấu hạ tầng hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng; 3- Chiến lược tập trung vào con người. Phát triển nguồn nhân lực thông qua chương trình giáo dục tiên tiến, hỗ trợ mạnh mẽ các dự án nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực công nghệ then chốt, như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ sinh học và năng lượng nhiệt hạch, khuyến khích ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất và đời sống, đẩy mạnh sử dụng AI để tối ưu hóa quy trình làm việc và nâng cao hiệu suất lao động.

Hàn Quốc là quốc gia đứng thứ tám trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) về chỉ số đổi mới khoa học - công nghệ, trong đó chỉ số về nguồn nhân lực và tri thức - một trong năm hạng mục của chỉ số đổi mới khoa học - công nghệ - đứng ở vị trí thứ sáu (năm 2020). Tỷ trọng ngân sách dành cho R&D của Hàn Quốc đứng đầu trong tổng số 35 quốc gia OECD với Chỉ số năng lực đổi mới khoa học kỹ thuật (COSTII) đạt 12,246 điểm. Hiện nay, Hàn Quốc nắm giữ nền khoa học - công nghệ tiên tiến, đội ngũ nhân lực R&D hùng hậu.

Chính phủ Hàn Quốc đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo đảm nguồn cung nhân lực khoa học - công nghệ, đồng thời tập trung mở rộng đầu tư phát triển nguồn nhân lực này. Năm 1967, để giải quyết vấn đề thiếu hụt nhân lực có trình độ, Hàn Quốc đã thành lập Viện Khoa học và Công nghệ (KIST), đưa ra chiến lược thu hút nhà khoa học và kỹ sư được giáo dục, đào tạo ở nước ngoài. Giáo dục sau đại học là chiến lược được Hàn Quốc lựa chọn nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực khoa học, công nghệ.

Năm 2022, Hàn Quốc áp dụng hệ thống hạn ngạch hợp đồng do tình trạng thiếu hụt nhân lực nghiêm trọng tại khu công nghiệp. Ngành công nghiệp bán dẫn Hàn Quốc thiếu hụt khoảng 3.000 nhân lực/năm. Trong giai đoạn 2024 - 2028, dự báo nhu cầu về nhân lực có trình độ cử nhân trở lên trong lĩnh vực khoa học - công nghệ của Hàn Quốc sẽ thiếu khoảng 47.000 người. Do vậy, chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ của Hàn Quốc đã góp phần nâng cao năng lực ngành công nghiệp và đáp ứng được đòi hỏi của tiến bộ kỹ thuật. Thành công trong phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ Hàn Quốc được thể hiện: 1- Cung cấp kịp thời nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghiệp để sản xuất sản phẩm mới, cung cấp nền tảng phát triển trong giai đoạn mới; 2- Bảo đảm đủ số lượng nhà khoa học, kỹ sư và kỹ thuật viên, thông qua chính sách đãi ngộ nhà khoa học Hàn kiều hồi hương, thiết lập uy tín xã hội cho kỹ thuật viên, miễn nghĩa vụ quân sự cho tài năng nghiên cứu để thu hút nhà nghiên cứu tới phòng thí nghiệm R&D và nhà máy sản xuất.

Phát triển mô hình đại học số cũng là một minh chứng thành công của Hàn Quốc. Mô hình này đã giúp Hàn Quốc bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lực công nghệ thông tin nói chung và nhân lực số nói riêng. Hiện nay, Hàn Quốc đã có 20 trường đại học số; trong đó, nổi bật là Trường Đại học số Xơ-un, với hình thức đào tạo trực tuyến, có số lượng sinh viên hằng năm lên tới 40.000 sinh viên. Hàn Quốc có được thành công trong phát triển nguồn nhân lực này là nhờ: 1- Có chính sách đào tạo nhân lực phù hợp với hoạt động R&D của các viện nghiên cứu và ngành công nghiệp. Chính sách này đã góp phần cung cấp kịp thời nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp, trở thành động lực cho việc tiếp thu và áp dụng công nghệ nhập khẩu để sản xuất ra sản phẩm mới, cung cấp nền tảng phát triển ở giai đoạn cất cánh của nền kinh tế Hàn Quốc; 2- Có chính sách ưu đãi để thu hút nhà nghiên cứu tới phòng thí nghiệm R&D và nhà máy sản xuất, như mức đãi ngộ cho nhà khoa học người Hàn Quốc ở nước ngoài hồi hương, thiết lập uy tín xã hội cho kỹ thuật viên, miễn nghĩa vụ quân sự cho tài năng trẻ.

Kỹ sư làm việc trên dây chuyền sản xuất chip bán dẫn tỉnh Giang Tô, Trung Quốc_Nguồn: China Daily

Hiện nay, Trung Quốc đứng đầu thế giới về số lượng nhân lực khoa học, công nghệ. Trung Quốc coi việc phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ là một trong những ưu tiên hàng đầu để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo. Năm 2021, Trung Quốc có 1,4 triệu chuyên gia nghiên cứu và phát triển khoa học, xếp thứ hai sau Mỹ. Năm 2023, con số này đạt khoảng 1,87 triệu người. Các nhà khoa học Trung Quốc đứng thứ năm thế giới về số lượng bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành (sau Mỹ, Anh, Đức và Nhật Bản). Đồng thời, Trung Quốc lọt vào tốp bốn quốc gia có số lượng bằng sáng chế nhiều nhất thế giới cùng Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ(1)

Trung Quốc có được thành công này là nhờ: 1- Dân số đông và cơ sở vốn con người; 2- Thị trường lao động ủng hộ chính sách trọng dụng nhân tài; 3- Cộng đồng nhà khoa học gốc Hoa ở nước ngoài; 4- Chính phủ sẵn sàng tập trung đầu tư vào khoa học. Có thể thấy hiện nay, Trung Quốc đang nắm giữ và tận dụng tốt nguồn lực kinh tế và nguồn nhân lực - các yếu tố chính quyết định quá trình thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ của nước này.

Thực trạng phát triển nhân lực khoa học, công nghệ của Việt Nam

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp”(2). Khoa học - công nghệ không chỉ thay đổi phương thức sản xuất, mà còn thay đổi phương thức làm việc, tác động mạnh mẽ đến mọi khía cạnh của cuộc sống, từ giáo dục, y tế đến giao tiếp và giải trí. Phát triển khoa học - công nghệ là yếu tố quan trọng, nhưng giá trị con người vẫn là yếu tố quyết định. Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ, tăng cường đầu tư vào khoa học - công nghệ, phát triển nhân lực khoa học, công nghệ và đạt được một số kết quả nhất định.

Về thành tựu

Chất lượng nguồn nhân lực khoa học, công nghệ Việt Nam đã có bước tiến đáng kể về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng nghề. Đáng chú ý, việc tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ trong nghiên cứu cơ bản đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển các ngành kinh tế trọng điểm, phát huy lợi thế và tiềm năng của các địa phương.

Trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ đã nghiên cứu và ứng dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất vật liệu xây dựng, hàng thủ công mỹ nghệ, bảo quản nông sản sau thu hoạch, góp phần đa dạng hóa sản phẩm, gia tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm. Lĩnh vực y dược đã nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong chẩn đoán, phát hiện, phòng và điều trị bệnh, đánh giá thực trạng một số loại bệnh trong cộng đồng có xu hướng gia tăng cùng với biến động của môi trường, khí hậu. Trong nông nghiệp, nghiên cứu một số giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất, chất lượng cao. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có bước phát triển trong nghiên cứu cơ bản, tạo tiền đề hình thành các lĩnh vực khoa học - công nghệ đa ngành mới, như vũ trụ, y sinh, na-nô, hạt nhân; lĩnh vực khoa học tự nhiên, như toán học, vật lý lý thuyết...

Hiện nay, số lượng và quy mô nguồn nhân lực khoa học, công nghệ của Việt Nam tăng nhanh, đặc biệt là nguồn nhân lực khoa học, công nghệ trẻ. Tỷ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ trên đại học (tiến sĩ, thạc sĩ) chiếm tỷ lệ cao. Tình trạng “chảy máu chất xám” bước đầu được khắc phục. Việt Nam có khoảng hơn 156.500 cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; trong đó, số lượng có trình độ tiến sĩ đạt gần 25.000 người.

Về hạn chế

Số lượng nguồn nhân lực hạn chế. Số lượng nguồn nhân lực khoa học, công nghệ của Việt Nam chiếm tỷ lệ nhỏ so với nhu cầu thực tiễn đặt ra, có mức độ phát triển về quy mô chậm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành khoa học - công nghệ trong giai đoạn mới. Vấn đề thiếu hụt nhân lực khoa học, công nghệ trong doanh nghiệp đã trở thành rào cản trong chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ. Số lượng nguồn nhân lực khoa học, công nghệ tuy có trình độ, nhưng chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế, tỷ lệ sử dụng thành thạo tiếng Anh hoặc ngoại ngữ chuyên ngành còn thấp.

Cơ cấu nguồn nhân lực mất cân đối. Phân bổ nhân lực khoa học, công nghệ phân bố không đồng đều giữa các địa phương; tập trung số lượng lớn ở các đơn vị hành chính sự nghiệp, các thành phố lớn, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng... Trong khi đó, nguồn nhân lực khoa học, công nghệ ở các tỉnh chiếm tỷ lệ thấp. Đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ tuy có gia tăng về số lượng, nhưng thiếu hụt nhà khoa học đầu ngành có khả năng dẫn dắt và tạo ra hướng nghiên cứu mới để thực hiện triển khai nhiệm vụ quốc gia ngang tầm khu vực và quốc tế.

Ba là, chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế. Trên thực tế, mặc dù chất lượng nguồn nhân lực khoa học, công nghệ đã được nâng lên, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao và yêu cầu phát triển của kinh tế tri thức. Chất lượng nguồn nhân lực khoa học, công nghệ trong doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu có trình độ đại học (đạt 75%), trong khi tỷ lệ có trình độ tiến sĩ chỉ chiếm 1%.

Quy mô đào tạo sau đại học còn thấp. Việt Nam có quy mô đào tạo sau đại học khá thấp và không tăng trong nhiều năm qua (đào tạo trình độ thạc sĩ chỉ chiếm khoảng 5%, đào tạo trình độ tiến sĩ khoảng 0,6%, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới). Trong đó, quy mô đào tạo sau đại học khối ngành STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học) thấp hơn, trình độ thạc sĩ chỉ đạt hơn 2%, trình độ tiến sĩ đạt xấp xỉ 0,3% và tiếp tục có xu hướng giảm(3).

Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ nguồn nhân lực khoa học, công nghệ có trình độ cao không trực tiếp làm công tác nghiên cứu, do cơ chế bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay vẫn dựa trên trình độ chuyên môn (chức danh, học vị) nên có tình trạng một số cán bộ lãnh đạo tập trung chủ yếu thời gian cho công tác quản lý, điều hành, ít tham gia trực tiếp hoạt động nghiên cứu khoa học. Không chỉ vậy, số lượng nhà khoa học có trình độ cao và có kinh nghiệm ngày càng giảm do hết tuổi lao động, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ ưu tiên, lĩnh vực công nghệ cao, trong khi chưa đào tạo được đội ngũ kế cận.

Học viên nghiên cứu tại Phòng sạch thuộc Trung tâm Nano và Năng lượng, Khoa Vật lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội_Nguồn: vnexpress.net

Một số gợi mở về phương diện chính sách đối với việc phát triển nhân lực khoa học, công nghệ nhìn từ kinh nghiệm của một số quốc gia khu vực Đông Bắc Á

Nhân lực khoa học, công nghệ là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong giai đoạn mới, nền kinh tế dựa nhiều hơn vào tri thức, khoa học, công nghệ, đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao, hiểu biết sâu rộng về công nghệ và có khả năng đổi mới sáng tạo. Vì vậy, tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia khu vực Đông Bắc Á hữu ích trong việc thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ hiện nay.

Thứ nhất, đẩy mạnh giáo dục - đào tạo, chú trọng đào tạo nhân lực công nghệ cao đáp ứng nhu cầu phát triển.

Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy nước này đã giành 19 - 20% ngân sách nhà nước cho giáo dục - đào tạo. Nền giáo dục của nước này được OECD đánh giá và xếp hạng thứ ba trong số nền giáo dục tốt nhất thế giới. Hàn Quốc đầu tư nhiều vào phát triển nghiên cứu tại trường đại học. Trong danh sách 200 trường đại học hàng đầu thế giới do Tổ chức Quacquarelil Symad (QS) của Anh xếp hạng, Hàn Quốc có 5 trường đại học được xếp trong danh sách này. Hàn Quốc đẩy mạnh đào tạo nhân lực ở nước ngoài. Nhiều nhà khoa học, sinh viên của Hàn Quốc đã lựa chọn các quốc gia có nền khoa học - công nghệ phát triển mạnh, như Nhật Bản, Mỹ, Đức để làm việc và học hỏi kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Chính phủ Hàn Quốc cũng ban hành luật về tăng cường đào tạo nhân lực công nghệ cao với tiêu chí khóa đào tạo chính thống phải gắn với ngành công nghiệp trọng điểm. Đặc biệt, Hàn Quốc xây dựng hệ thống giáo dục riêng về khoa học - công nghệ, tách biệt với hệ thống giáo dục trung học và đại học. Viện Khoa học và Công nghệ tiên tiến Hàn Quốc (KAIST) được thành lập năm 1971 với mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực khoa học, công nghệ cho Hàn Quốc. Sinh viên theo học ở trường này được cấp học bổng và miễn giảm nghĩa vụ quân sự. Khoảng 40 - 50% trong tổng số người có bằng thạc sĩ và tiến sĩ về nghiên cứu khoa học - công nghệ là do Viện KAIST đào tạo.

Kinh nghiệm của Trung Quốc là tập trung đầu tư nâng cấp chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng cho trường đại học. Trung Quốc vươn lên vị trí thứ hai về đào tạo trong bảng xếp hạng thế giới chỉ sau Mỹ; 7 trường đại học Trung Quốc đứng trong tốp 200 trường đại học hàng đầu thế giới. Nhiều sáng kiến được chính phủ Trung Quốc đưa ra, như Chương trình Học giả Cheung Kong, Chương trình 100, Chương trình 1000 và 10.000 Tài năng đã làm gia tăng số lượng nhân lực khoa học, công nghệ của Trung Quốc.

Nhật Bản chú trọng, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực khoa học, công nghệ bằng cách mở khóa đào tạo tại trường đại học có sự tham gia của nhiều chuyên gia khoa học, công nghệ. Bên cạnh đó, đưa ra Dự án Đại học toàn cầu (giai đoạn 2014 - 2023) với mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục, nghiên cứu và hợp tác quốc tế trong hệ thống giáo dục đại học; tạo điều kiện thu hút sinh viên và giảng viên xuất sắc trên toàn thế giới.

Thứ hai, tập trung đầu tư để phát triển khoa học - công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin.

Để giải quyết sự thiếu hụt nhân lực công nghệ thông tin phục vụ cho quá trình chuyển đổi số, từ kinh nghiệm của Hàn Quốc có thể thấy, nước này đã ban hành quy định về: 1- Mở rộng hệ thống đào tạo công nghệ thông tin ở bậc đại học và tiến sĩ; 2- Hỗ trợ xây dựng chương trình đào tạo công nghệ thông tin tiên tiến, đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và đào tạo giảng viên công nghệ thông tin; 3- Hỗ trợ ứng dụng công nghệ thông tin trong cộng đồng; 4- Đầu tư ngân sách đào tạo nhân lực công nghệ thông tin và chuyển giao trách nhiệm cho cơ quan liên quan thực hiện.

Trung Quốc mở rộng phạm vi hỗ trợ nhiều hơn cho dự án khoa học - công nghệ do nhà khoa học trẻ khởi xướng. Ngay từ năm 2012, Vụ Quản lý và Phân bổ nguồn lực (DRAM) Trung Quốc đã dành 80% sáng kiến ​​để thiết lập dự án đặc biệt cho nhà khoa học trẻ và hỗ trợ hơn 230 nhóm nhà khoa học trẻ.

Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy, cần triển khai nhiều biện pháp nhằm cải thiện điều kiện đãi ngộ và môi trường làm việc để thu hút nhân lực khoa học, công nghệ. Năm 2024, Nhật Bản đầu tư khoản ngân sách 1,33 tỷ USD để đào tạo công nghệ thông tin cho lực lượng lao động trung niên. Thủ tướng Nhật Bản Cư-si-đa Phu-mi-ô cam kết đưa ra gói hỗ trợ trị giá 400 tỷ yên để đầu tư vào nguồn nhân lực trong giai đoạn 2023 - 2025.

Thứ ba, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho R&D, trong đó tập trung phát triển nguồn nhân lực.

Theo thống kê của OECD, năm 2023, Hàn Quốc là nước đứng thứ hai thế giới với mức phân bổ cho R&D là 5% GDP(4). Hàn Quốc thúc đẩy đầu tư mạnh mẽ cho R&D với mục tiêu tiến tới làm chủ công nghệ tiên tiến, tạo môi trường hoạt động, xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ.

Năm 2023, tổng số kinh phí đầu tư cho R&D của Trung Quốc là 2,6% GDP(5) và tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng ổn định.

Nhật Bản khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho R&D bằng chính sách ưu đãi thuế đối với phần chi phí tăng cho nghiên cứu. Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (có tổng số vốn nhỏ hơn 100 triệu yên hoặc có số lao động ít hơn 1.000 người), Chính phủ Nhật Bản cho phép để lại 6% thu nhập thuế để chi cho hoạt động R&D, khuyến khích hợp tác chặt chẽ giữa tổ chức R&D với doanh nghiệp. Trong Kế hoạch cơ bản lần thứ 5 (giai đoạn 2016 - 2020), tổng đầu tư cho R&D của khu vực công và khu vực tư nhân của Nhật Bản đạt 26.000 tỷ yên (tương đương 236,3 tỷ USD). Năm 2023, khoản chi cho R&D của nước này đạt 3,4% GDP(6).

Thứ tư, chính sách thu hút nhà khoa học từ nước ngoài trở về phục vụ đất nước.

Để thu hút nhà khoa học, Viện KIST (Hàn Quốc) đã đưa ra mức lương hấp dẫn cùng với khoản “trợ cấp hồi hương” và hỗ trợ lớn về tài chính. Việc thu hút đội ngũ nhà nghiên cứu, kỹ sư được đào tạo ở nước ngoài đã đóng góp lớn vào sự tiến bộ khoa học - công nghệ của Hàn Quốc. Nhà khoa học đã trở thành nguồn nhân lực quan trọng trong mạng lưới kỹ thuật và kiến thức để phát triển công nghệ mới ở Hàn Quốc.

Đối với Trung Quốc, để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trở về phục vụ đất nước, nước này đưa ra mức thưởng lên tới 1 triệu nhân dân tệ (NDT), cùng với nguồn vốn tài trợ nghiên cứu lên tới 5 triệu NDT. Nhà khoa học được hưởng thêm quyền lợi về chăm sóc sức khỏe, nhà ở và hỗ trợ pháp lý. Mức tài trợ ở các tỉnh và trường đại học thậm chí cao gấp đôi so với mức ưu đãi ở cấp trung ương. Bên cạnh việc thu hút nhân tài theo chương trình dự án sẵn có, Trung Quốc còn triển khai chính sách khuyến khích nhân tài tập trung vào ba hướng: 1- Bồi dưỡng nhân tài là cơ sở; 2- Thu hút nhân tài là trọng điểm; 3- Dùng tốt nhân tài là then chốt. 

Nhật Bản tập trung thu hút lao động có tay nghề cao thay vì thuê nhiều nhân viên. Mức lương nâng cao là ưu tiên hàng đầu của nhân lực công nghệ khi làm việc ở Nhật Bản, theo đó hơn 70% lao động trong lĩnh vực công nghệ sẽ được nâng lương ở một số vị trí việc làm nhất định.

Thứ năm, thúc đẩy hợp tác quốc tế về nhân lực khoa học - công nghệ.

Nhằm mở rộng hợp tác với nhà khoa học nước ngoài, Trung Quốc đã mở ba hạng mục giải thưởng dành cho nhà khoa học nước ngoài: 1- Giải thưởng Khoa học tự nhiên nhà nước (SNSA); 2- Giải thưởng Phát minh công nghệ nhà nước (STIA); 3- Giải thưởng Tiến bộ khoa học và công nghệ nhà nước (SSTPA), đóng góp đáng kể tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác quốc tế, nhất là trao đổi chuyên môn cho nhà khoa học có triển vọng.

Tại Nhật Bản, Viện Khoa học AIST có quan hệ hợp tác nghiên cứu mở rộng với hơn 500 nhà nghiên cứu, 2.000 doanh nghiệp cùng trường đại học, thu hút hơn 500 nhà nghiên cứu quốc tế. Viện AIST bao gồm 22 viện nghiên cứu, 20 trung tâm nghiên cứu trên khắp cả nước, được coi là cầu nối hạt giống công nghệ sáng tạo của Nhật Bản.

Năm 2021, Viện KAIST của Hàn Quốc đã ký biên bản hợp tác với Đại học Sussex (Anh) để tăng cường hợp tác bồi dưỡng chuyên gia về khoa học - công nghệ. Theo đó, triển khai chương trình trao đổi, chương trình giáo dục, hoạt động nghiên cứu về chính sách khoa học - công nghệ. Ngoài ra, Chương trình liên kết đào tạo giữa Viện Công nghệ Tô-ky-ô (Nhật Bản), Đại học Thanh Hoa (Trung Quốc) và Viện KAIST (Hàn Quốc) được thúc đẩy nhằm tăng cường hợp tác và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật ở khu vực châu Á./.

Phạm Quang Chính - PGS, TS Phạm Thị Thanh Bình, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam - Khoa Kinh tế, Đại học Mở Hà Nội/tapchicongsan.org.vn

----------------------

(1) Kirana Aisyah: “China Highlights the Importance of Human Resources in Sci-tech Innovation” (Tạm dịch: Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong đổi mới khoa học - công nghệ), Opengov, ngày 31-5-2021, https://opengovasia.com/2021/05/31/china-highlights-the-importance-of-human-resources-in-sci-tech-innovation/
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 231
(3) “Quy mô đào tạo sau đại học khối ngành STEM rất thấp và có xu hướng ngày càng giảm”, Trang điện tử VOV2, ngày 19-6-2023,  https://vov2.vov.vn/giao-duc-dao-tao/quy-mo-dao-tao-sau-dh-khoi-nganh-stem-rat-thap-va-co-xu-huong-ngay-cang-giam-42846
(4), (5) “Ranked: Countries Investing the Most in R&D” (Tạm dịch: Xếp hạng: Các quốc gia đầu tư nhiều nhất vào R&D), Visual Capitalist, ngày 17-4-2025, https://www.visualcapitalist.com/rd-investment-by-country/
(6) “Ranked: Countries Investing the Most in R&D” (Tạm dịch: Xếp hạng: Các quốc gia đầu tư nhiều nhất vào R&D), Tlđd

Xem tin theo ngày:   / /