 Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
I. TƯ DUY CHIẾN LƯỢC MỚI VỀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TRONG BỐI CẢNH MỚI
1. Đại hội XIV của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt
Một là, Đại hội XIV của Đảng là một dấu mốc lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm kỳ Đại hội XIV sẽ diễn ra sau 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 35 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với nhiều kết quả rất quan trọng, toàn diện, đột phá, nhiều điểm sáng nổi bật. Thế và lực của đất nước, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng tăng lên; ý Đảng và lòng dân hòa quyện trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu, mà trước hết là thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng.
Hai là, nhiệm kỳ Đại hội XIV là thời điểm Đảng ta vận hành thống nhất, đồng bộ, hiệu quả, tổ chức bộ máy mới của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở nhằm nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; đồng thời đặt ra yêu cầu tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo sự chuyển biến, đột phá mới, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, tiến kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Ba là, Đại hội XIV có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, tổng kết 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, đánh giá 15 năm thi hành Điều lệ Đảng; chỉ rõ nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm; từ đó hoạch định, xác định rõ mục tiêu, tầm nhìn, bước đi, đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Nội dung Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV có nhiều điểm mới, với những nội dung nổi bật mang tầm chiến lược
 Cuộc họp Thường trực Tiểu ban Văn kiện để cho ý kiến vào dự thảo Báo cáo chính trị do Tổ Biên tập xây dựng trên cơ sở Đề cương chi tiết Báo cáo chính trị đã được Hội nghị Trung ương 9 khóa XIII thông qua, Hà Nội, ngày 13/8/2024
Cuộc họp Thường trực Tiểu ban Văn kiện để cho ý kiến vào dự thảo Báo cáo chính trị do Tổ Biên tập xây dựng trên cơ sở Đề cương chi tiết Báo cáo chính trị đã được Hội nghị Trung ương 9 khóa XIII thông qua, Hà Nội, ngày 13/8/2024
Một là, làm rõ kết quả nổi bật trong việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ khóa XIII của Đảng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, sát sao của Ban Chấp hành Trung ương Đảng mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân với tinh thần “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”.
Hai là, tập trung thực hiện 12 định hướng phát triển đất nước, 6 nhiệm vụ trọng tâm, 3 đột phá chiến lược đã đưa đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nhiều vấn đề vượt dự báo, chưa có tiền lệ; đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tăng thêm sức mạnh, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta về chặng đường phát triển mạnh mẽ mới trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ba là, đã làm rõ được những kết quả mới, những cách làm mới, những nền tảng được tạo dựng; phát hiện, tìm tòi được những chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp thiết thực, khả thi, có sức sống từ trong thực tiễn, từ những nhân tố mới của thực tiễn.
Bốn là, nhận diện rõ khát vọng, tầm nhìn, định hướng các giải pháp lớn, sát hợp với tình hình mới, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn trong giai đoạn phát triển mới khi thế và lực đã ở tầm cao mới.
Năm là, đề ra phương hướng giải pháp, định hướng chiến lược để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, nguồn lực khoa học - công nghệ là đột phá để đưa đất nước phát triển cất cánh trong những năm tiếp theo.
Sáu là, khẳng định được quyết tâm cao, nỗ lực lớn, tư duy đột phá, hành động quyết liệt, tâm thế tự tin, tự cường của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
3. Chủ đề Đại hội thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược
Dự thảo Báo cáo chính trị xác định chủ đề của Đại hội XIV là: “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030; tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, vì hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Một là, chủ đề của Đại hội XIV được xác định trong Dự thảo có nội hàm rất sâu rộng, thể hiện mục tiêu chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc. Cụ thể là:
- Khẳng định sự kiên trì về con đường phát triển của Việt Nam “vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế thời đại.
- Thể hiện tinh thần đoàn kết “chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước trong thời gian tới”.
- Thể hiện hệ giá trị cốt lõi “hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc” là những yếu tố nền tảng cho sự phát triển bền vững, thịnh vượng của đất nước trong kỷ nguyên mới.
- Khẳng định ý chí “tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” để vươn lên mạnh mẽ, không ngừng đổi mới và phát triển của dân tộc.
Hai là, chủ đề Đại hội thể hiện toàn diện tầm nhìn chiến lược, tư duy đột phá, chủ động kiến tạo, đột phá phát triển cũng như quyết tâm cao, nỗ lực lớn, sẵn sàng hành động quyết liệt, hiệu quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vì mục tiêu phát triển chung trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.
- Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng xác định mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; hiện thực hóa tầm nhìn phát triển đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là hai mốc phát triển thiên niên kỷ của đất nước.
- Tầm nhìn chiến lược và mục tiêu phát triển đến năm 2030 được xác định với trọng tâm đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới, hướng đến một nền kinh tế hiện đại, thu nhập trung bình cao và hội nhập sâu rộng. Đại hội XIV nhấn mạnh yếu tố đổi mới sáng tạo và kinh tế số, phản ánh sự chuyển dịch mạnh mẽ trong tư duy phát triển. Đặc biệt, mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 với GDP bình quân đầu người đến năm 2030 đạt 8.500 USD cho thấy sự tăng tốc đáng kể so với định hướng trước đây.
Như vậy, tầm nhìn chiến lược và mục tiêu phát triển đến năm 2030 trong Đại hội XIV vừa kế thừa định hướng phát triển từ các nhiệm kỳ trước, vừa có sự điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh mới. Đây không chỉ là sự dịch chuyển trong chính sách mà còn thể hiện quyết tâm đưa Việt Nam tiến mạnh trong thời kỳ mới, bảo đảm vị thế vững chắc trong khu vực và trên trường quốc tế.
II. TỰ CHỦ CHIẾN LƯỢC, TỰ CƯỜNG, TỰ TIN, TIẾN MẠNH TRONG KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC
 Sáng 25/10, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội), Bộ trưởng Bộ Công an Lương Tam Quang đại diện Việt Nam ký Công ước của Liên hợp quốc về Chống tội phạm mạng. Việc Liên hợp quốc lựa chọn Hà Nội làm địa điểm tổ chức Lễ mở ký Công ước Hà Nội là dấu ấn quan trọng trong lịch sử đối ngoại đa phương của Việt Nam và gần 50 năm quan hệ đối tác Việt Nam - Liên hợp quốc.
Sáng 25/10, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội), Bộ trưởng Bộ Công an Lương Tam Quang đại diện Việt Nam ký Công ước của Liên hợp quốc về Chống tội phạm mạng. Việc Liên hợp quốc lựa chọn Hà Nội làm địa điểm tổ chức Lễ mở ký Công ước Hà Nội là dấu ấn quan trọng trong lịch sử đối ngoại đa phương của Việt Nam và gần 50 năm quan hệ đối tác Việt Nam - Liên hợp quốc.
1. Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV đã dự báo tình hình thế giới và trong nước đặt ra những vấn đề mới, yêu cầu mới
Một là, bối cảnh thế giới
- Cục diện thế giới đang chuyển biến nhanh, phức tạp chưa từng có theo hướng đa cực, đa trung tâm, đa tầng và phân mảnh, phân tuyến mạnh. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều thách thức mới. Các nước lớn và các trung tâm quyền lực tiếp tục điều chỉnh chiến lược, vừa cạnh tranh vừa hợp tác, thỏa hiệp, song cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn. Xung đột, chiến tranh, chạy đua vũ trang công nghệ cao diễn ra ở nhiều khu vực, nguy hiểm hơn, không loại trừ nguy cơ chiến tranh lan rộng.
- Toàn cầu hóa và liên kết kinh tế vẫn tiến triển, dù đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn; chủ nghĩa bảo hộ, chính sách thuế quan áp đặt, nguy cơ chiến tranh thương mại đi đôi với xu hướng điều chỉnh chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương tiếp tục là phương thức quan trọng trong ngăn ngừa và giải quyết các vấn đề toàn cầu, hòa bình, các tranh chấp, xung đột, song đối mặt với nhiều trở ngại. Các thách thức toàn cầu tiếp tục tác động bất lợi đến an ninh và phát triển của tất cả các nước, trong đó có Việt Nam.
- Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục phát triển mạnh mẽ và tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực. Lực lượng sản xuất mới, nhất là công nghệ cao và trí tuệ nhân tạo phát triển đột phá chưa từng có. Xu thế tự chủ chiến lược về kinh tế, đẩy mạnh chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng ngày càng được các nước quan tâm, thúc đẩy.
- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, song cũng là khu vực trọng điểm cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, trong đó có Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột.
ASEAN tiếp tục tăng cường hợp tác, liên kết, xây dựng Cộng đồng 2045 đồng thời nỗ lực khẳng định vai trò trung tâm trong cấu trúc khu vực, song sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức mới cả bên trong và bên ngoài.
Hai là, bối cảnh trong nước
- Sau 40 năm đổi mới, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước được nâng lên, là nền tảng quan trọng để đất nước vươn mình trong kỷ nguyên phát triển mới. Vai trò, nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ngày càng được đổi mới và nâng cao; nền tảng tư tưởng, lý luận được bổ sung, phát triển và củng cố toàn diện. Công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả nổi bật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng hoàn thiện, năng lực điều hành và hiệu quả quản lý nhà nước được nâng cao. Cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế tư nhân; hội nhập quốc tế,… đang tạo cơ hội lịch sử, bước ngoặt cho sự phát triển đột phá của đất nước trong kỷ nguyên mới.
- Trong 5 năm tới, đất nước ta sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, có những mặt gay gắt, nặng nề hơn so với giai đoạn trước. Phát triển kinh tế - xã hội chưa bền vững. Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra từng bước được khắc phục, song có mặt diễn biến phức tạp. Nguy cơ bao trùm là nguy cơ tụt hậu, nhất là về công nghệ và rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Tư duy phát triển chưa theo kịp các xu thế phát triển của thế giới, phản ứng chính sách chưa kịp thời, chậm điều chỉnh và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước trong giai đoạn mới. Quá trình già hóa dân số diễn ra nhanh hơn so với dự báo. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ngày càng gay gắt. Tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trên một số lĩnh vực còn diễn biến phức tạp, nghiêm trọng. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện nhiều thủ đoạn, âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Công cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nhất là bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích khác ở Biển Đông, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ, bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia trên không gian mạng, an ninh nguồn nước còn nhiều thách thức.
- Dự thảo các văn kiện trong Đại hội XIV đã khái quát: Thế giới đang trải qua những thay đổi mang tính thời đại, tạo ra nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức lớn đan xen; trong nước đang triển khai những quyết sách chiến lược mang tính cách mạng, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới cao hơn; đồng thời đây cũng là bước ngoặt mới, vận hội mới mang tính lịch sử đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
2. Tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình
Tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên mới thể hiện trong chủ đề Đại hội, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong Dự thảo Báo cáo chính trị và các văn kiện khác trình Đại hội XIV của Đảng
3. Tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình là tất yếu
- “Tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” không chỉ phản ánh tinh thần phát triển nội lực mà còn thể hiện sự chủ động hội nhập và thích ứng với những biến đổi của thế giới. Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, không chỉ tập trung vào việc xây dựng một nền kinh tế mạnh mà còn khẳng định vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
- “Tự chủ chiến lược” được xác định là vai trò chủ động của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình phát triển.
- “Tự cường” được xác định là nền tảng để nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm thiểu phụ thuộc vào bên ngoài, chủ động thích ứng với biến động của môi trường địa - kinh tế toàn cầu. “Tự tin” là khơi dậy ý chí, khát vọng và trách nhiệm trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, phát huy cao nhất tiềm năng, trí tuệ, sáng tạo của người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Việc nhấn mạnh hơn nữa vai trò của “tự cường” và “tự tin” trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV không chỉ trong phát huy nội lực, phát triển kinh tế độc lập, tự chủ mà còn trong chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có chọn lọc, góp phần nâng cao vị thế quốc gia. Đây là bước phát triển trong tư duy lãnh đạo của Đảng trong việc tập trung xây dựng mô hình phát triển bền vững, bao trùm, dựa trên đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và phát triển con người toàn diện.
4. Tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên mới là động lực tinh thần mạnh mẽ
Nội dung “Tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” thể hiện quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong việc hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đây chính là động lực tinh thần mạnh mẽ, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV, thể hiện niềm tin và khát vọng lớn lao về một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, hạnh phúc trong thời kỳ mới.
III. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO         
Báo cáo chính trị Đại hội XIII nêu 5 quan điểm chỉ đạo. Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV cũng nêu 5 quan điểm chỉ đạo, nhưng có nhiều điểm mới.
(1) Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; tự chủ chiến lược, đổi mới mô hình phát triển, lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước, nâng cao đời sống và hạnh phúc của Nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
So với Đại hội XIII, quan điểm trên có 2 điểm mới: Một là, bổ sung “lý luận về đường lối đổi mới” là một bộ phận cấu thành của nền tảng tư tưởng; hai là, bổ sung nội dung “Tự chủ chiến lược, đổi mới mô hình phát triển, lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước, nâng cao đời sống nhân dân và bảo vệ Tổ quốc”.
(2) Nhận diện sớm, tranh thủ mọi thuận lợi, thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; đẩy mạnh đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và tăng cường chủ động hội nhập quốc tế kết hợp chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ trọng tâm, trong đó: Phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa, con người là nền tảng; tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên.
So với Đại hội XIII, quan điểm trên có 3 điểm mới nổi bật: Một là, bổ sung “bảo vệ môi trường” vào nội dung “phát triển kinh tế, xã hội” thành “phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm”; hai là, bổ sung “con người” vào nội dung phát triển văn hóa và xác định “phát triển văn hóa, con người là nền tảng”; ba là, bổ sung đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế “cùng với tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu thường xuyên”.
(3) Khơi dậy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, khát vọng phát triển, tinh thần đoàn kết, ý chí tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc; phát huy sức mạnh văn hóa, con người thành nguồn lực nội sinh và động lực mạnh mẽ cho sự phát triển. Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, kiên quyết tháo gỡ kịp thời, dứt điểm các điểm nghẽn, nút thắt, khơi thông và giải phóng sức sản xuất, mọi nguồn lực, phát huy mọi động lực. Xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia là động lực chính và phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất; hoàn thiện thể chế phát triển gắn với  thực hiện đồng bộ 4 chuyển đổi: Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực; thu hút, trọng dụng nhân tài, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới.
So với Đại hội XIII, quan điểm trên nhấn mạnh: khơi dậy ý chí “5 tự”: tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc; hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước. 
(4) Phát huy sức mạnh, bản lĩnh, trí tuệ của con người Việt Nam, khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thế trận lòng dân; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường với củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.  Bảo đảm và bảo vệ cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.         
So với Đại hội XIII, quan điểm trên nhấn mạnh nội dung: Tự chủ về chiến lược và mềm dẻo về sách lược trong thực hiện.
(5) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; đoàn kết, thống nhất; vận hành thông suốt, đồng bộ, hiệu quả tổ chức bộ máy mới của hệ thống chính trị; nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và năng lực quản lý, quản trị, kiến tạo phát triển của Nhà nước. Gắn kết chặt chẽ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của Nhân dân; tăng cường kiểm soát quyền lực, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
So với Đại hội XIII, quan điểm trên nhấn mạnh: Vận hành thông suốt, đồng bộ, hiệu quả tổ chức bộ máy mới của hệ thống chính trị.
IV. HOÀN THIỆN ĐỒNG BỘ THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV nhấn mạnh: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, thúc đẩy đột phá chiến lược, kiến tạo hệ sinh thái phát triển mới;bảo đảm quan điểm lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển, không ngừng nâng cao đời sống, hạnh phúc của Nhân dân; tập trung hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, trong đó thể chế chính trị là then chốt, thể chế kinh tế là trọng tâm; các thể chế khác là rất quan trọng.
Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển được thể hiện trong quan điểm, định hướng nhiệm vụ, giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược của dự thảo Báo cáo chính trị và các văn kiện khác trình Đại hội XIV của Đảng, gồm những nội dung cơ bản sau:
1. Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ
- Tiếp tục hoàn thiện, triển khai hiệu quả tổ chức bộ máy mới của hệ thống chính trị đơn vị hành chính 2 cấp xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ hoàn thiện, triển khai chức năng mới của hệ phân cấp, phân quyền, phân công, cơ chế hoạt động, kiểm tra, giám sát và mối quan hệ giữa các tổ chức, cơ quan, đơn vị cả Trung ương và địa phương bảo đảm hoạt động thông suốt, đồng bộ, nhịp nhàng; nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát, phản biện xã hội và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
- Thể chế hóa, cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị, nhất là đối với Nhà nước gắn liền với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước, năng lực quản trị quốc gia kiến tạo phát triển. Tiếp tục cụ thể hóa và chỉ đạo tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách mang tính đột phá của Trung ương, Bộ Chính trị từ năm 2024 đến nay.
- Hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, cộng đồng dân cư trong việc tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, trong hoạt động “tự chủ - tự quản” theo pháp luật. Xây dựng và thực thi có hiệu quả cơ chế giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của các tổ chức đảng và cơ quan nhà nước; đẩy mạnh thực hiện dân chủ trong xã hội, nhất là dân chủ ở cơ sở.
2. Tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, tạo đột phá để kịp thời hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội, khẳng định vai trò quyết định của thị trường trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh bảo đảm thuận lợi, công khai, minh bạch, ổn định, giải phóng sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực và tạo động lực mới cho phát triển.
- Xây dựng và hoàn thiện thể chế phù hợp để xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế số, nhất là công nghệ tài chính, tài sản số, trí tuệ nhân tạo, thương mại điện tử, các ngành công nghệ mới. Có cơ chế, chính sách đột phá, vượt trội để phát triển các mô hình kinh tế mới và các dự án trọng điểm, quy mô lớn như: Kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, các vùng động lực, cực tăng trưởng, hành lang kinh tế, đặc khu kinh tế, đặc khu công nghệ, khu thương mại tự do, trung tâm tài chính quốc tế, trung tâm dữ liệu quốc gia; đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, điện hạt nhân, điện mặt trời, điện gió ngoài khơi...
- Chuyển mạnh phương thức quản lý nhà nước từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn để quản lý và tăng cường kiểm tra, giám sát. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính phục vụ, chuyên nghiệp, hiện đại, minh bạch, góp phần nâng cao rõ rệt chỉ số cải cách hành chính quốc gia trên các bảng xếp hạng quốc tế. Hoàn thiện thể chế để nâng cao năng lực độc lập, tự chủ của nền kinh tế và hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển các doanh nghiệp Việt Nam.
- Hoàn thiện thể chế để nâng cao năng lực độc lập, tự chủ của nền kinh tế và hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế và điều kiện thuận lợi nhất để phát triển các doanh nghiệp Việt Nam.
3. Xây dựng, hoàn thiện thể chế chấn hưng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với các giá trị cơ bản: Dân tộc, dân chủ, nhân văn và khoa học; bảo đảm phát triển văn hóa ngang tầm với chính trị, kinh tế, xã hội, để văn hóa thực sự là nền tảng, nguồn lực nội sinh, động lực to lớn, hệ điều tiết cho phát triển nhanh và bền vững đất nước; xây dựng và thực hiện đồng bộ hệ giá trị quốc gia Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
4. Đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế quản lý phát triển xã hội hiện đại, bao trùm, bền vững, tăng cường sự tham gia của các chủ thể, sự giám sát của người dân; gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
5. Hoàn thiện đồng bộ thể chế quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu
Chủ động xây dựng thể chế để thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
6. Xây dựng, hoàn thiện thể chế quốc phòng, an ninh, đối ngoại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới
Thể chế hóa đầy đủ, đồng bộ các quan điểm, đường lối của Đảng về quốc phòng, an ninh, đối ngoại để xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bổ sung, hoàn thiện thể chế để phát huy cao nhất vai trò của 3 trụ cột đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp của nền ngoại giao Việt Nam tiên phong, toàn diện, hiện đại.
V. XÁC LẬP MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG MỚI, CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV nhấn mạnh xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính.
1. Xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế
Dự thảo Báo cáo chính trị nhấn mạnh:
- Xác lập mô hình tăng trưởng mới với mục tiêu là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế; lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; tạo ra sức sản xuất và phương thức sản xuất mới chất lượng cao, trọng tâm là kinh tế dữ liệu, kinh tế số; đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng. Hình thành các cực tăng trưởng mạnh, các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị, các đặc khu kinh tế thế hệ mới ngang tầm khu vực và toàn cầu.
- Đổi mới tư duy và đẩy mạnh cơ cấu lại toàn bộ nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng trên cơ sở bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. Đổi mới kinh tế nhà nước, trọng tâm là doanh nghiệp nhà nước theo các chuẩn mực quốc tế, tăng cường hiệu quả và vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước. Cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước, tăng chi cho đầu tư phát triển, tập trung vào các ngành, lĩnh vực ưu tiên; tạo đột phá mạnh về cơ chế, chính sách nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư công. Hiện đại hóa hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng; đẩy mạnh việc xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, sở hữu chéo, nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng, giữ vững ổn định, an toàn hệ thống. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát hoạt động tài chính, ngân hàng.
- Nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh một số ngành công nghiệp nền tảng như: Năng lượng, cơ khí chế tạo, luyện kim, vật liệu mới, hoá chất, công nghệ số và sinh học. Ưu tiên phát triển, từng bước làm chủ công nghệ sản xuất trong một số ngành công nghiệp mới nổi như: Công nghiệp chip bán dẫn, công nghiệp robot và tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, vật liệu tiên tiến, vật liệu phục vụ công nghiệp cơ khí chế tạo, công nghiệp sinh học, công nghiệp môi trường, năng lượng tái tạo, năng lượng mới. Từng bước xây dựng, phát triển công nghiệp ứng dụng năng lượng nguyên tử, công nghiệp không gian vũ trụ, công nghiệp lượng tử. Phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp; công nghiệp phục vụ quốc phòng, an ninh; công nghiệp xây dựng hiện đại; công nghiệp văn hóa, kinh tế di sản; một số cụm liên kết ngành công nghiệp quan trọng, các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiện đại trên phạm vi vùng và liên vùng.
- Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao năng lực tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập, nhất là trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, văn hóa, giáo dục, y tế. Đẩy mạnh xã hội hóa trong cung cấp dịch vụ công.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng xanh, sinh thái, tuần hoàn, theo chuỗi giá trị, có hiệu quả. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong nông nghiệp; phát triển các vùng sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng và giá trị gia tăng cao, gắn với chế biến sâu và xây dựng thương hiệu sản phẩm; phát triển các hình thức tổ chức và liên kết sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp và nông thôn; mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, xây dựng các chuỗi sản xuất, liên kết tiêu thụ sản phẩm.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ. Phát triển các loại hình dịch vụ mới, dịch vụ kết nối có giá trị gia tăng cao, có lợi thế. Phát triển các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, tài sản số, dịch vụ thương mại, dịch vụ vận tải, logistics... Đẩy mạnh xã hội hóa để phát triển các dịch vụ văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, y tế, thể thao, dịch vụ việc làm... Xây dựng và phát triển một số trung tâm dịch vụ, du lịch chất lượng cao; một số trung tâm tài chính quốc tế, khu thương mại tự do thế hệ mới; các trung tâm logistics lớn gắn với các cảng biển, cảng hàng không trung chuyển quốc tế, các cửa khẩu quốc tế lớn, hiện đại, tự động hoá cao. Xây dựng, phát triển thương hiệu quốc gia về dịch vụ, du lịch mang đậm bản sắc văn hóa, con người Việt Nam.
2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tự chủ sản xuất trong nước với việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, xây dựng và hiện đại hóa nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, lấy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo làm động lực chính, lấy hội nhập quốc tế làm phương thức để huy động mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Đây cũng là điểm mới nổi bật).
- Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn bền vững; phát triển các hình thức tổ chức sản xuất hiện đại trong nông nghiệp; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp; phát triển kinh tế nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Tập trung xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.
- Xây dựng thương hiệu quốc gia về một số sản phẩm dịch vụ. Xây dựng và phát triển một số trung tâm dịch vụ, du lịch chất lượng cao; một số trung tâm tài chính quốc tế. Thúc đẩy thương mại dịch vụ xuyên biên giới. Xây dựng các trung tâm logistics lớn gắn với các cảng biển, cảng hàng không trung chuyển quốc tế, các cửa khẩu quốc tế lớn, hiện đại, tự động hóa cao.
- Phát triển mạnh các ngành kinh tế biển, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phát triển đồng bộ các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị sinh thái, chuỗi đô thị, hành lang giao thông đường bộ ven biển... Xây dựng các trung tâm hậu cần nghề cá lớn gắn với ngư trường trọng điểm; phát triển nuôi trồng hải sản trên biển quy mô lớn, công nghệ cao. Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ trên một số đảo trọng điểm, chiến lược.
- Phát huy đầy đủ chức năng, vai trò của các khu vực kinh tế. Phát triển kinh tế nhà nước thật sự giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm các cân đối lớn, định hướng chiến lược, dẫn dắt nền kinh tế; phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các loại hình kinh tế khác giữ vai trò quan trọng.
- Xây dựng một số tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có năng lực cạnh tranh quốc tế, đóng vai trò trụ cột, tiên phong trong một số lĩnh vực quan trọng như năng lượng, công nghệ thông tin, viễn thông, công nghiệp chế tạo, tài chính - ngân hàng, kết cấu hạ tầng.
- Tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận bình đẳng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; mở rộng sản xuất, kinh doanh, đa dạng hóa thị trường, tái cơ cấu mặt hàng, xây dựng và phát triển thương hiệu, nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, thu hút các nhà đầu tư chiến lược vào khu vực nông nghiệp, nông thôn. Chú trọng phát triển các tập đoàn tư nhân Việt Nam lớn, mạnh, có tầm chiến lược. Hỗ trợ tích cực các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tạo môi trường thuận lợi để kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể, hộ nông nghiệp và phi nông nghiệp tiếp cận đất đai, vốn, công nghệ, thị trường. Phát triển các làng nghề gắn với phát huy các giá trị văn hóa và bảo vệ môi trường.
- Thu hút có chọn lọc các dự án đầu tư nước ngoài; tập trung chủ yếu cho phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao. Thúc đẩy kết nối khu vực FDI với khu vực kinh tế trong nước, thực hiện có hiệu quả quá trình chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và đào tạo nguồn nhân lực; hình thành hệ sinh thái và tăng cường chuỗi liên kết giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước.
- Đẩy mạnh liên kết vùng, mở rộng và cơ cấu lại không gian phát triển phù hợp với hệ thống hành chính mới. Đổi mới tư duy từ quản lý sang quản trị phát triển vùng; xây dựng bộ tiêu chí phát triển vùng, liên vùng phù hợp với tiềm năng, lợi thế và điều kiện cụ thể của từng địa phương và vùng.
- Tăng cường xây dựng và phát triển đồng bộ, chất lượng cao hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đa phương thức, hạ tầng kinh tế - xã hội. Phát huy vai trò của các vùng động lực quốc gia, các hành lang kinh tế, các đô thị lớn, các trung tâm kinh tế. Hoàn thiện cơ chế, chính sách điều phối và quản lý phát triển vùng.
VI. TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH TOÀN DIỆN
1. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV nhấn mạnh: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, tự đổi mới để Đảng ta thật sự là đạo đức, là văn minh, nâng tầm và nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng.
Dự thảo Báo cáo chính trị xác định 10 nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng:
Một là, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị
- Nâng cao năng lực hoạch định chủ trương, đường lối phù hợp với quy luật khách quan, thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Kế thừa, bổ sung, phát triển Cương lĩnh, Điều lệ của Đảng phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên phát triển mới. Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức thực hiện.
- Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, vai trò nêu gương, tính chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, cán bộ cấp chiến lược.
Hai là, đẩy mạnh xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận
- Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội, về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; tiếp tục hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới.
- Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng. Gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
- Duy trì nền nếp và nâng cao chất lượng bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới. Nâng cao chất lượng hoạt động trao đổi lý luận với các đảng cộng sản và các chính đảng trên thế giới. Lãnh đạo tốt công tác tuyên truyền, báo chí, xuất bản. truyền thông; quản lý có hiệu quả an ninh mạng; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị.
- Đẩy mạnh đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, trọng dụng các chuyên gia đầu ngành.
Ba là, tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức
- Trọng tâm là công tác giáo dục, thực hiện nghiêm chuẩn mực đạo đức cách mạng, đạo đức công vụ, đề cao trách nhiệm nêu gương, ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp.
- Cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nêu gương.
Bốn là, đổi mới công tác dân vận, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động Nhân dân. Phát huy vai trò, sự tham gia của Nhân dân trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và Nhân dân, giữa các vùng, địa phương.
- Tổ chức có hiệu quả, thực chất việc Nhân dân tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
- Gắn công tác dân vận với thực hiện có hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, nhất là từ cơ sở.
Năm là, bảo đảm hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân
- Vận hành tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo mô hình mới thông suốt, đồng bộ.
- Hoàn thiện cơ chế bảo đảm sự đồng bộ, liên thông giữa các quy định của Đảng với pháp luật, quy định của Nhà nước về tổ chức bộ máy, hoạt động và biên chế của hệ thống chính trị.
- Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền của từng cơ quan, tổ chức, địa phương. Thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng về công tác quản lý biên chế của hệ thống chính trị.
Sáu là, tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Đổi mới hoạt động và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở; khắc phục tình trạng hình thức trong đánh giá, xếp loại hằng năm đối với tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.
- Quan tâm phát triển đảng viên trong công nhân, cán bộ quản lý trong doanh nghiệp, khu vực ngoài nhà nước nhất là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người có tôn giáo ở nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số.
Bẩy là, chú trọng xây dựng Đảng về cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, trọng tâm cấp chiến lược và cấp cơ sở, nhất là người đứng đầu
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng và bảo đảm quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu. Khẩn trương đổi mới và thực hiện đồng bộ thể chế về công tác cán bộ, nhất là trong đánh giá, đào tạo, sử dụng cán bộ.
- Thực hiện tốt chủ trương khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Quan tâm coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học, cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ một cách thực chất và hiệu quả; kiên quyết khắc phục những yếu kém, bất cập, sơ hở trong công tác cán bộ. Thực hiện tốt việc thí điểm một số chủ trương, giải pháp đổi mới, đột phá trong công tác cán bộ.
- Coi trọng và thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo đảm đoàn kết, nhất trí và sự trong sạch, vững mạnh của Đảng. Kiên quyết phòng, chống các biểu hiện bè phái, "lợi ích nhóm" và chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ.
Tám là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
- Cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, tập trung giám sát tổ chức đảng, đảng viên trong thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
- Tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra cấp trên đối với cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra cấp dưới về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; kiểm tra, giám sát việc kê khai, công khai tài sản, thu nhập của cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý.
- Phối hợp chặt chẽ, kịp thời, đồng bộ, hiệu quả giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật và giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy ủy ban kiểm tra các cấp, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp.
Chín là, kiên quyết, kiên trì đẩy mạnh đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân, thực hiện đồng bộ phương châm 4 không: "không thể", "không dám", "không muốn", "không cần" trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, với quyết tâm chính trị rất cao, từ Trung ương đến cơ sở; trong đó phòng ngừa là chính, cơ bản, lâu dài, phát hiện, xử lý là quan trọng, đột phá.
- Hoàn thiện, kiên quyết thực hiện đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả thể chế phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Nâng cao tính chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; chủ động phòng ngừa, tự phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ.
- Tổ chức thực hiện Chiến lược quốc gia về phòng, chống lãng phí. Triển khai quyết liệt, thường xuyên, toàn diện, đồng bộ công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; chú trọng thu hồi tài sản tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng, truy bắt, dẫn độ những đối tượng bỏ trốn. Xây dựng văn hóa liêm chính, không tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân.
Mười là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới
- Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về Đảng lãnh đạo, cầm quyền; cụ thể hóa, thể chế hóa mối quan hệ "Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ".
- Xây dựng, ban hành nghị quyết ngắn gọn, theo hướng hành động để thực hiện. Chăm lo xây dựng, củng cố và phát huy hiệu quả vai trò hạt nhân lãnh đạo của cấp ủy các cấp, nhất là người đứng đầu.
- Hoàn thiện thể chế, thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo, xây dựng tổ chức bộ máy, công tác cán bộ, biên chế của hệ thống chính trị, đẩy mạnh phân cấp, xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng; đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo, tham mưu của Đảng từ Trung ương tới cơ sở. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, quy định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ, quy trình công tác, khắc phục tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng.
2. Xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
- Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV xác định đổi mới hệ thống chính trị là một trong những yêu cầu cấp thiết và mang tính chiến lược, bắt nguồn từ bối cảnh phát triển mới của đất nước và yêu cầu thực tiễn đang đặt ra cho công tác xây dựng, vận hành bộ máy chính trị. Đây không chỉ là bước tiếp nối của công cuộc đổi mới toàn diện, mà còn là yếu tố nền tảng để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045. Những lý do cụ thể được xác định là:
Thứ nhất, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn mới: Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới với khát vọng đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Trong điều kiện đó, hệ thống chính trị phải thực sự tinh gọn, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả để bảo đảm tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược.
Thứ hai, xử lý các bất cập nội tại trong mô hình tổ chức và vận hành bộ máy. Dù đã đạt nhiều kết quả tích cực, nhưng Dự thảo cũng thẳng thắn chỉ ra: Mô hình tổng thể tổ chức bộ máy còn nhiều bất cập; hiệu quả kiểm soát quyền lực chưa cao. Một số cơ quan hoạt động còn hình thức; sự phối hợp giữa các bộ phận chưa đồng bộ; phân cấp, phân quyền chưa rõ ràng, thiếu cơ chế kiểm soát hiệu quả, dẫn đến tình trạng chồng chéo và lãng phí nguồn lực.
Thứ ba, tăng sức đề kháng và khả năng thích ứng của hệ thống trước bối cảnh toàn cầu hóa, cạnh tranh chiến lược và chuyển đổi số. Tình hình thế giới, khu vực đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, nhiều yếu tố bất định. Muốn giữ vững ổn định chính trị - xã hội và tận dụng cơ hội phát triển, hệ thống chính trị phải nâng cao năng lực điều hành, quản lý và phản ứng chính sách.
Thứ tư, tạo điều kiện để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ thực chất của Nhân dân. Đổi mới hệ thống chính trị là để hiện thực hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” một cách thực chất, hiệu quả. Dự thảo xác định rõ: Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gắn với đổi mới tư duy, cách lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng.
- Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV đặt vấn đề đổi mới hệ thống chính trị như một yêu cầu mang tính tất yếu và cấp bách, nhằm giải quyết đồng thời ba yêu cầu lớn: khắc phục hạn chế tổ chức - vận hành, thích ứng với thời đại mới, và nâng cao năng lực lãnh đạo, quản trị quốc gia. Đây chính là nền tảng thể chế cho mọi bước tiến của đất nước trong kỷ nguyên phát triển mới.
Một là, tiếp tục đổi mới toàn diện hệ thống chính trị theo hướng hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên số và hội nhập quốc tế sâu rộng. Đây là một trong những nội dung có tính chiến lược và đột phá, thể hiện bước phát triển mới về tư duy xây dựng hệ thống chính trị.
Hai là, gắn đổi mới hệ thống chính trị với đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Dự thảo nhấn mạnh: “Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gắn với đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”. Đây là điểm mới mang tính nền tảng, cho thấy trọng tâm đổi mới không chỉ ở tổ chức bộ máy mà còn ở chất lượng lãnh đạo và năng lực quản trị chính trị.
Ba là, hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị. Dự thảo đề ra: “Hoàn thiện thể chế về phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong việc thực hiện quyền lực nhà nước”. Điều này phản ánh định hướng thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực đồng bộ, hiệu quả hơn, bảo đảm quyền lực được kiểm tra, giám sát chặt chẽ.
Bốn là, tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghiêm túc cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” theo hướng thực chất, hiệu quả hơn. Dự thảo nhấn mạnh yêu cầu phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thông qua các cơ chế như dân chủ cơ sở, phản biện xã hội, công khai - minh bạch.
Năm là, triển khai mô hình tổ chức bộ máy theo hướng mới, bảo đảm tinh gọn, thống nhất, đồng bộ, thông suốt và hiệu lực, hiệu quả. Dự thảo xác định: “Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương, cơ quan, đơn vị”, đồng thời khuyến khích mô hình mới như tổ chức đảng trong doanh nghiệp tư nhân, hay cấp xã không đủ điều kiện thì thay thế bằng đảng bộ bộ phận.
Sáu là, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ và chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài. Dự thảo yêu cầu: “Hoàn thiện cơ chế thu hút, trọng dụng nhân tài; khuyến khích và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, năng động, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”. Đây là định hướng mang tính nhân văn và đột phá, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chất lượng cao đáp ứng yêu cầu mới.
PGS.TS Nguyễn Viết Thông (Nguyên Tổng Thư ký Hội đồng lý luận Trung ương)