Việc thúc đẩy hành động, chuyển sang mô hình kinh tế tuần hoàn, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, hạn chế phát thải ra môi trường là yêu cầu cấp bách, vừa giải quyết vấn đề môi trường, phát triển kinh tế xanh, vừa nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm chi phí nguyên, nhiên liệu sản xuất của doanh nghiệp...
Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong nhiều thập kỷ qua, đã đạt được những thành tựu ấn tượng trong việc nâng cao đời sống người dân. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, việc chuyển đổi sang một mô hình phát triển bền vững hơn, trong đó KTTH đóng vai trò trung tâm, là một yêu cầu tất yếu đối với Việt Nam. KTTH không chỉ giúp giảm thiểu chất thải và ô nhiễm, mà còn tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên, tạo ra giá trị kinh tế mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo,…
1. Lợi ích của kinh tế tuần hoàn
Kinh tế tuần hoàn là một mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và tái tạo được thực hiện nhằm tối thiểu hóa việc sử dụng tài nguyên nguyên sinh, giảm thiểu chất thải và ô nhiễm, đồng thời tối đa hóa giá trị của sản phẩm, vật liệu trong suốt vòng đời của chúng. Khác với mô hình kinh tế tuyến tính truyền thống chỉ tập trung vào việc sản xuất và tiêu thụ nhanh chóng, KTTH hướng đến việc giữ cho vật liệu và sản phẩm được sử dụng càng lâu càng tốt thông qua các hoạt động như tái sử dụng, sửa chữa, tân trang và tái chế. Việc áp dụng KTTH mang lại nhiều lợi ích đáng kể trên cả ba khía cạnh phát triển bền vững:
Một là, về kinh tế: (i) Tạo ra cơ hội kinh doanh mới, phát triển các ngành công nghiệp tái chế, sửa chữa, dịch vụ chia sẻ, công nghệ tuần hoàn, tạo ra việc làm mới; (ii) Tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp khi áp dụng KTTH có thể giảm rủi ro về nguồn cung vật liệu, cải thiện hình ảnh thương hiệu và thu hút các nhà đầu tư xanh; (iii) KTTH tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên, giảm chi phí nguyên vật liệu đầu vào, nâng cao năng suất sử dụng tài nguyên; (iv) Giảm sự phụ thuộc vào các chuỗi cung ứng toàn cầu dễ bị tổn thương.
Hai là, về xã hội: (i) Tạo việc làm xanh, thúc đẩy phát triển các kỹ năng mới và cơ hội việc làm trong lĩnh vực KTTH; (ii) Nâng cao ý thức cộng đồng, khuyến khích lối sống bền vững và tiêu dùng có trách nhiệm; (iii) Cải thiện sức khỏe cộng đồng do giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Ba là, về môi trường: (i) Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, giảm nhu cầu khai thác vật liệu nguyên sinh, kéo dài tuổi thọ của nguồn tài nguyên không tái tạo và phục hồi các hệ sinh thái; (ii) KTTH giảm thiểu chất thải và ô nhiễm thông qua việc giảm áp lực lên các bãi chôn lấp, hạn chế phát thải khí nhà kính và ô nhiễm nguồn nước, không khí; (iii) Giảm phát thải carbon do sử dụng vật liệu tái chế và năng lượng tái tạo giúp giảm đáng kể lượng khí thải carbon.
2. Cơ sở pháp lý, chính sách và thực trạng triển khai kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
- Cơ sở pháp lý, chính sách:
+ Nghị quyết số 29/NQ-CP, ngày 14/01/2021: Ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, trong đó nhấn mạnh vai trò của KTTH.
+ Quyết định số 1677/QĐ-TTg, ngày 12/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án phát triển KTTH ở Việt Nam. Đề án này đặt ra các mục tiêu cụ thể đến năm 2025 và 2030, như tăng cường tái chế chất thải, giảm phát thải khí nhà kính, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên.
+ Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 ban hành kèm theo Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 01/10/2021: KTTH được xác định là một trong những trụ cột quan trọng để thực hiện tăng trưởng xanh, hướng tới nền kinh tế các-bon thấp.
+ Và một số các văn bản khác như Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo 2015 đề cập đến việc sử dụng hiệu quả tài nguyên biển và giảm thiểu ô nhiễm. Luật Đa dạng sinh học 2008 liên quan đến bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên sinh học. Cũng như các nghị định, thông tư hướng dẫn về quản lý chất thải rắn, nước thải, sản xuất sạch hơn, sử dụng hiệu quả năng lượng.
+ Luật Bảo vệ môi trường 2020: Đây là văn bản pháp lý quan trọng nhất, chính thức đưa khái niệm và các quy định về KTTH vào hệ thống pháp luật Việt Nam. Điều 142 trong Luật này quy định rõ về KTTH, khẳng định trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh trong việc xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển KTTH. Điều 54 quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) đối với bao bì và sản phẩm điện, điện tử, ắc quy, pin, lốp xe. Đây là một bước đột phá, buộc nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm thu gom và tái chế sản phẩm của mình sau khi chúng trở thành chất thải. Nghị định số 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ đã cụ thể hóa chi tiết quy định về EPR, bắt đầu có hiệu lực từ năm 2024 đối với bao bì và từ năm 2027 đối với các sản phẩm điện, điện tử.
- Thực trạng triển khai kinh tế tuần hoàn:
Việt Nam đã chứng kiến nhiều sáng kiến và mô hình KTTH được triển khai ở các cấp độ khác nhau, từ doanh nghiệp lớn đến cộng đồng. Có thể kể đến một số sáng kiến và mô hình tiêu biểu áp dụng KTTH vào sản xuất trên các lĩnh vực:
Thứ nhất, trong lĩnh vực nông nghiệp: Mô hình VAC/VACR (Vườn - Ao - Chuồng/Vườn - Ao - Chuồng - Rừng) là mô hình KTTH truyền thống, nơi chất thải từ chăn nuôi làm phân bón cho cây trồng, chất thải thực vật làm thức ăn cho gia súc, và hệ thống ao nuôi cá tích hợp. Mô hình sử dụng phế phẩm nông nghiệp, chẳng hạn biogas được tạo ra từ chất thải chăn nuôi. Tái sử dụng rơm rạ thay vì đốt gây ô nhiễm, rơm rạ được dùng làm thức ăn chăn nuôi, trồng nấm rơm, hoặc sản xuất phân bón hữu cơ. Các nhà máy chế biến chế biến cá tra, tôm đã tận dụng phụ phẩm thủy sản như sử dụng đầu, xương, da cá để sản xuất bột cá, dầu cá, collagen, chitin,…
Thứ hai, trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp: Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư vào công nghệ tái chế kim loại, giấy, nhựa, cao su, kính[1]. Các khu công nghiệp (KCN) đang dần chuyển đổi theo mô hình KCN sinh thái, nơi các doanh nghiệp chia sẻ tài nguyên, năng lượng, nước và chất thải để tạo ra giá trị gia tăng[2].
Thứ ba, trong lĩnh vực tiêu dùng và dịch vụ: Các sáng kiến giảm rác thải nhựa được vận dụng ở nhiều siêu thị, chuỗi cửa hàng[3] đã giảm sử dụng túi nilon, khuyến khích khách hàng mang túi riêng, sử dụng bao bì thân thiện môi trường. Trong dịch vụ sửa chữa, tái sử dụng đã phát triển các cửa hàng sửa chữa đồ điện tử, đồ gia dụng, các chợ đồ cũ. Mô hình chia sẻ tài sản cũng là một minh họa cho KTTH thông qua các nền tảng chia sẻ xe đạp, ô tô, không gian làm việc.
Thứ tư, vai trò của cộng đồng: Các tổ chức xã hội, nhóm tình nguyện đã tích cực triển khai các hoạt động phân loại rác tại nguồn, thu gom phế liệu, tuyên truyền về KTTH. Ví dụ, mô hình "đổi rác lấy quà" ở nhiều địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những bước tiến tích cực, việc triển khai KTTH ở nước ta vẫn còn đối mặt với nhiều rào cản, thách thức, đó là:
Một là, rào cản về cơ chế, chính sách: Thiếu các hướng dẫn cụ thể: Mặc dù đã có Luật và Đề án, nhưng các văn bản hướng dẫn chi tiết về tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình tái chế, định mức tái sử dụng vẫn còn thiếu, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc triển khai. Chính sách ưu đãi chưa đủ mạnh. Các chính sách về thuế, tín dụng xanh, tiếp cận đất đai, cấp phép còn chưa thực sự hấp dẫn để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào KTTH. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và cộng đồng còn chưa thực sự chặt chẽ. Ngoài ra, những khó khăn trong thực thi EPR do việc triển khai EPR đòi hỏi một hệ thống phức tạp từ thu gom, phân loại, đến tái chế và kiểm soát, đặt ra thách thức lớn về quản lý và nguồn lực.
Hai là, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, chưa nhận thức đầy đủ về lợi ích và cách thức triển khai KTTH. Người dân còn thiếu thói quen phân loại rác tại nguồn và tiêu dùng bền vững.
Ba là, công nghệ tái chế, xử lý chất thải của Việt Nam chưa đạt so với các nước phát triển. Chi phí đầu tư ban đầu cho công nghệ tuần hoàn thường cao, gây khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bốn là, hệ thống thu gom, phân loại, vận chuyển và xử lý chất thải chưa hiện đại so với các nước phát triển.
Năm là, thị trường cho sản phẩm tuần hoàn chưa phát triển: Vật liệu tái chế (vật liệu thứ cấp) thường không có tiêu chuẩn rõ ràng, khiến các doanh nghiệp khó tin tưởng và sử dụng. Giá thành của sản phẩm tái chế đôi khi cao hơn hoặc tương đương sản phẩm mới, khiến chúng khó cạnh tranh trên thị trường. Đó cũng là lý do khiến người tiêu dùng còn e ngại hoặc chưa sẵn sàng chi trả cao hơn cho các sản phẩm tái chế, thân thiện môi trường.
3. Kiến nghị một số giải pháp

Doanh nghiệp đã có một số áng kiến như: sử dụng nhựa PE và PET tái chế cho bao bì sản phẩm, chuyển từ ống hút nhựa dùng một lần sang ống hút giấy đạt chứng chỉ Quản lý rừng bền vững (FSC) đối với toàn bộ sản phẩm uống liền.
Nhằm thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi sang KTTH ở nước ta trong thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục phát triển công nghệ và hạ tầng cho phát triển mô hình KTTH: (i) Thành lập các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo về KTTH. Hỗ trợ tài chính cho các dự án R&D về công nghệ tái chế, xử lý chất thải hiện đại, sản xuất vật liệu mới từ chất thải. Khuyến khích hợp tác quốc tế để tiếp nhận và làm chủ các công nghệ tuần hoàn tiên tiến từ các quốc gia phát triển; (ii) Đầu tư xây dựng các nhà máy xử lý chất thải rắn quy mô lớn, áp dụng công nghệ đốt rác phát điện, sản xuất phân compost. Phát triển hệ thống thu gom, phân loại chất thải tại nguồn hiệu quả, đồng bộ từ khu dân cư đến khu công nghiệp. Đẩy nhanh việc chuyển đổi các khu công nghiệp truyền thống thành khu công nghiệp sinh thái.
Thứ hai, nâng cao nhận thức và năng lực trong nền KTTH: (i) Đẩy mạnh các chiến dịch truyền thông đại chúng về lợi ích và tầm quan trọng của KTTH, phân loại rác tại nguồn, tiêu dùng bền vững. Đưa nội dung về KTTH vào chương trình giáo dục ở các cấp học; (ii) Mở các chuyên ngành đào tạo về KTTH tại các trường đại học, cao đẳng. Tổ chức các khóa tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý, doanh nghiệp về các kiến thức, kỹ năng cần thiết để triển khai KTTH; (iii) Xây dựng mạng lưới và diễn đàn trao đổi về KTTH. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, chuyên gia, nhà khoa học và cơ quan quản lý trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin về KTTH.
Thứ ba, phát triển thị trường cho các sản phẩm tuần hoàn: (i) Hoàn thiện chính sách mua sắm công xanh. Chính phủ và các cơ quan nhà nước cần đi đầu trong việc ưu tiên mua sắm các sản phẩm thân thiện môi trường, sản phẩm được làm từ vật liệu tái chế; (ii) Khuyến khích tiêu dùng bền vững thông qua ban hành và thực thi các chính sách ưu đãi cho người tiêu dùng khi mua sản phẩm tái chế, sản phẩm có chứng nhận xanh; (iii) Xây dựng sàn giao dịch vật liệu thứ cấp. Tạo ra một nền tảng minh bạch để kết nối cung - cầu vật liệu tái chế, giúp các doanh nghiệp dễ dàng tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào và đầu ra; (iv) Hỗ trợ phát triển chuỗi giá trị tuần hoàn. Khuyến khích sự liên kết giữa các doanh nghiệp từ khâu thu gom, phân loại, tái chế đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tuần hoàn.
Thứ tư, hợp tác quốc tế: Việt Nam cần tăng cường trao đổi, học tập kinh nghiệm từ các quốc gia đi đầu về KTTH như Hà Lan, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc; đồng thời kêu gọi các tổ chức quốc tế và doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào các dự án KTTH tại Việt Nam. Tích cực tham gia các sáng kiến, diễn đàn, hiệp định quốc tế về KTTH và phát triển bền vững để nâng cao vị thế và tiếp cận các nguồn lực.
Thứ năm, hoàn thiện khung pháp lý và chính sách: (i) Xây dựng Nghị định/Thông tư chuyên sâu về KTTH nhằm chi tiết hóa các quy định trong Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Đề án KTTH quốc gia. Ví dụ: Ban hành hướng dẫn chi tiết về phân loại chất thải tại nguồn, quy trình thu gom, vận chuyển cho từng loại vật liệu (nhựa, giấy, kim loại, thủy tinh), và các tiêu chuẩn kỹ thuật cho vật liệu tái chế; (ii) Thúc đẩy thực thi trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR). Xây dựng lộ trình và cơ chế minh bạch, cần có quy định rõ ràng về trách nhiệm, nghĩa vụ tài chính của nhà sản xuất, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức thu gom, tái chế tham gia hệ thống; (iii) Phát triển hệ thống dữ liệu; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về lượng sản phẩm đưa ra thị trường, lượng chất thải thu gom và tái chế để theo dõi, đánh giá hiệu quả EPR; (iv) Xây dựng các chính sách ưu đãi vượt trội để thúc đẩy mạnh mẽ cả sản xuất và tiêu dùng hướng về mục tiêu KTTH: Miễn, giảm mạnh mẽ thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng cho các hoạt động sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường, tái chế, tái sử dụng. Ví dụ: Xem xét chính sách tương tự như Hàn Quốc, Nhật Bản áp dụng ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ xanh. Xây dựng các gói tín dụng xanh với lãi suất ưu đãi vượt trội, quỹ bảo lãnh tín dụng cho các dự án KTTH. Ngân hàng Nhà nước cần có hướng dẫn cụ thể về cho vay các dự án KTTH. Hỗ trợ tiếp cận đất đai, ưu tiên quỹ đất sạch cho các nhà máy tái chế, khu công nghiệp sinh thái; (v) Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cho vật liệu tái chế, sản phẩm tái sử dụng và các quy trình sản xuất tuần hoàn để đảm bảo chất lượng và tạo niềm tin cho thị trường. Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đạt được các chứng nhận quốc tế về KTTH./.
ThS. Cấn Văn Long, Bộ Nội vụ, baocaovien.vn
----------------
Chú thích:
[1] Ví dụ, Công ty TNHH Nhựa Duy Tân đã đầu tư dây chuyền tái chế nhựa PET hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế để sản xuất hạt nhựa tái sinh sử dụng trong ngành bao bì thực phẩm. Hay các doanh nghiệp thép như Hòa Phát, Pomina sử dụng phế liệu thép làm nguyên liệu đầu vào.
[2] Điển hình là KCN Amata Biên Hòa (Đồng Nai) với các sáng kiến về chia sẻ tài nguyên và xử lý chất thải tập trung.
[3] Ví dụ: VinMart, Lotte Mart, Starbucks.