Kết quả đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương; công tác chuẩn bị tổ chức và những vấn đề cần quan tâm trong tuyên truyền Đại hội XIV của Đảng (Phần 1)

Thứ Ba, ngày 18 tháng 11 năm 2025 - 06:59 Đã xem: 27

PHẦN I - VỀ KẾT QUẢ ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại Đại hội Đảng bộ Chính phủ nhiệm kỳ 2025 - 2030, sáng 13/10/2025.

I. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ ĐẠI HỘI

Đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2025 - 2030 diễn ra trong bối cảnh thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường; xung đột vũ trang, cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, căng thẳng tại nhiều điểm nóng kéo dài; các thách thức an ninh phi truyền thống (thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, an ninh mạng) ngày càng gia tăng; kinh tế toàn cầu phân mảnh, chuỗi cung ứng có nguy cơ đứt gãy, tăng trưởng suy giảm,... Ở trong nước, đất nước vừa có bước chuyển mình mang tính lịch sử, quyết tâm, quyết liệt thực hiện cuộc cách mạng sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; điều chỉnh địa giới hành chính cấp tỉnh, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp với tầm nhìn và không gian phát triển mới, có quy mô, tính chất lớn nhất từ trước tới nay. Trong năm cuối của nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đảng ban hành hàng loạt chủ trương chiến lược với nhiều tư duy mới, giải pháp đột phá, mang tính cách mạng, ý Đảng hợp lòng dân. Công tác xây dựng Đảng đặt ra nhiều yêu cầu mới, nhất là công tác xây dựng Đảng về tổ chức bộ máy, công tác cán bộ, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện quyết liệt, đồng bộ toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ thực hiện các kết luận, nghị quyết đột phá trên tất cả các lĩnh vực nhằm tháo gỡ điểm nghẽn, thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao đời sống, phúc lợi Nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội. Công tác chỉ đạo, điều hành chuyển mạnh sang cách làm việc quyết liệt, đồng bộ, kịp thời, gắn với đôn đốc, kiểm tra thường xuyên; chú trọng lắng nghe ý kiến từ cơ sở. Trong thời gian diễn ra đại hội, một số địa phương chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của cơn bão số 10, 11 nhưng đã chủ động phương án ứng phó, khẩn trương khắc phục khó khăn tổ chức đại hội đúng tiến độ, đạt kết quả thành công tốt đẹp.

1. Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo

- Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, thường xuyên công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Kịp thời ban hành nhiều văn bản quan trọng để lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, đồng bộ, xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương. Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng (ban hành kèm theo Quyết định số 190-QĐ/TW, ngày 10/10/2024); Bộ Chính trị đã sớm ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 14/6/2024 với một số nội dung mới, cụ thể; ban hành Kết luận số 118-KL/TW điều chỉnh một số nội dung của Chỉ thị số 35-CT/TW; bổ sung, sửa đổi, ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 14/4/2025 về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng (thay thế Chỉ thị số 35-CT/TW và Kết luận số 118-KL/TW), các kết luận và một số chủ trương về công tác nhân sự đại hội phù hợp chủ trương sắp xếp tổ chức bộ máy, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã có những bài viết, phát biểu chỉ đạo quan trọng về công tác chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, đưa ra các quan điểm, định hướng xây dựng văn kiện “phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện” và yêu cầu chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ các cấp “không chỉ cho một nhiệm kỳ mà cho cả tương lai, không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn”, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo đất nước trong tình hình mới. Bộ Chính trị, Ban Bí thư triển khai 19 đoàn công tác trực tiếp làm việc với các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương để hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị 45. Bộ Chính trị đã tổ chức làm việc với 40 ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương để chỉ đạo, cho ý kiến về công tác xây dựng văn kiện và nhân sự đại hội; phân công các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư dự, theo dõi, chỉ đạo Đại hội. Định kỳ hàng tuần, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nghe báo cáo tiến độ, kết quả đại hội, kịp thời định hướng, chỉ đạo công tác tổ chức đại hội đảng bộ các cấp; đồng thời chỉ đạo các cơ quan chức năng thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát, theo dõi tình hình, công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội.

- Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, các cơ quan tham mưu giúp việc của Đảng ở Trung ương đã tham mưu Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành cơ bản đầy đủ các quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và công tác cán bộ; tích cực, chủ động ban hành các văn bản hướng dẫn công tác chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng: Ban Tổ chức Trung ương ban hành về hướng dẫn một số nội dung Chỉ thị số 35-CT/TW, triển khai phần mềm theo dõi tiến trình đại hội, phương án nhân sự cấp ủy cấp tỉnh sau hợp nhất; Uỷ ban Kiểm tra Trung ương ban hành hướng dẫn về công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng; Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương ban hành hướng dẫn tuyên tuyền đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng; Văn phòng Trung ương Đảng ban hành quy định chế độ chi tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, hướng dẫn tổng hợp ý kiến góp ý vào các dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng,...

- Các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương kịp thời quán triệt, cụ thể hoá và triển khai thực hiện Chỉ thị số 45-CT/TW và các văn bản mới của Trung ương liên quan đến công tác đại hội; đồng thời, ban hành kế hoạch thực hiện cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn tại địa phương, đơn vị; thành lập các tiểu ban giúp việc chuẩn bị và tổ chức đại hội; lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan tham mưu ban hành văn bản hướng dẫn công tác chuẩn bị đại hội đối với các đảng bộ trực thuộc; phân công uỷ viên thường vụ, uỷ viên ban chấp hành chỉ đạo, chuẩn bị đại hội,…

- Cùng với việc chỉ đạo sát sao công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội, Trung ương và các địa phương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, vừa khắc phục khó khăn để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và tăng cường công tác đối ngoại, vừa sắp xếp, ổn định tổ chức bộ máy, vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp bảo đảm thông suốt, hiệu quả.

2. Về chuẩn bị văn kiện

Các đại biểu biểu quyết thông qua dự thảo Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030

- Các cấp ủy đã coi trọng tổng kết thực tiễn và đầu tư nhiều công sức, trí tuệ xây dựng dự thảo các văn kiện trình đại hội gồm báo cáo chính trị; báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy; dự thảo nghị quyết và chương trình hành động phù hợp với tình hình thực tế; nội dung các dự thảo văn kiện ngắn gọn, bám sát yêu cầu Chỉ thị số 45-CT/TW của Bộ Chính trị và các văn bản hướng dẫn chỉ đạo của Trung ương[1]. Dự thảo Báo cáo chính trị cơ bản đã đánh giá toàn diện, khách quan tình hình, kết quả thực hiện nghị quyết đại hội nhiệm kỳ 2020 - 2025, cập nhật, bổ sung đầy đủ quan điểm chỉ đạo, chủ trương, định hướng lớn trong các dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, các kết luận, nghị quyết chiến lược của Trung ương, Bộ Chính trị[2], chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, các bài viết, phát biểu tại các cuộc thăm và làm việc với địa phương, với cơ quan Trung ương; tiếp thu các ý kiến hợp lý của các cơ quan Trung ương; tiếp thu đầy đủ ý kiến góp ý của Bộ Chính trị, các Tổ Công tác của Bộ Chính trị tại các cuộc làm việc cho ý kiến vào văn kiện và phương án nhân sự Đại hội để hoàn thiện trình Đại hội; đối với các tỉnh ủy, thành ủy hợp nhất, sáp nhập, nội dung dự thảo Báo cáo chính trị tích hợp, đánh giá chung kết quả thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ các tỉnh, thàtnh phố trước hợp nhất, sáp nhập, xác định phương hướng, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ 2025 - 2030 sát với tình hình, yêu cầu mới; đồng thời, đã được lấy ý kiến tham gia rộng rãi của các cấp, ngành, cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Báo cáo kiểm điểm của ban chấp hành đảng bộ thể hiện nghiêm túc tinh thần tự phê bình và phê bình, có tính chiến đấu cao; đánh giá đúng, khách quan, toàn diện về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghị quyết đại hội nhiệm kỳ 2020 - 2025; việc đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách lề lối làm việc; chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm, rút ra bài học kinh nghiệm  và đề ra các giải pháp khắc phục trong nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự thảo Nghị quyết đại hội thể hiện được nội dung cốt lõi của Báo cáo chính trị, thể hiện tinh thần đổi mới, quyết tâm bứt phá đi lên với những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm; Chương trình hành động cụ thể hóa các nội dung thực hiện Nghị quyết theo hướng rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ thẩm quyền, rõ nguồn lực thực hiện, rõ sản phẩm để có thể triển khai ngay sau đại hội. Một số đảng bộ đã mạnh dạn đưa vào nghị quyết đại hội chỉ tiêu GRDP 2 con số của địa phương[3] gắn với mục tiêu tăng trưởng giai đoạn 2026 - 2030 của cả nước đề ra tại dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng. Đại hội đảng bộ Quân đội đã quyết nghị chủ trương xây dựng Quân đội Nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; sớm hơn 5 năm so với mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và Đại hội XIII của Đảng đã xác định.

3. Về chuẩn bị nhân sự đại hội

Công tác nhân sự đại hội được Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ đạo thường xuyên, chặt chẽ và các cấp ủy quan tâm chuẩn bị ngay từ đầu nhiệm kỳ. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 43 quy định, kết luận, đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm từng bước đổi mới đồng bộ, tổng thể, toàn diện các khâu trong công tác cán bộ như quy định về đánh giá cán bộ với nhiều nội dung mới, đột phá, gắn đánh giá phẩm chất, năng lực, uy tín của cán bộ với chức trách, nhiệm vụ được giao; điều động, luân chuyển, đào tạo cán bộ trong quy hoạch để chuẩn bị nhân sự chủ chốt một số tỉnh, thành ủy kết hợp với xây dựng phương án bố trí, sắp xếp một số chức danh lãnh đạo, trong đó tập trung bố trí bí thư tỉnh ủy, thành ủy không là người địa phương,...

Các cấp ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị nhân sự bám sát Chỉ thị số 45-CT/TW, các kết luận của Bộ Chính trị và các văn bản liên quan. Trên cơ sở tổng kết, đánh giá công tác nhân sự cấp ủy nhiệm kỳ 2020 - 2025, 2021 - 2026, ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy đã chỉ đạo xây dựng đề án nhân sự ban chấp hành, ban thường vụ, bí thư, phó bí thư, ủy ban kiểm tra, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra nhiệm kỳ 2025 - 2030, nhân sự chủ chốt HĐND, UBND và đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2026 - 2031, xác định rõ tiêu chuẩn, cơ cấu, số lượng, quy trình, cách thức tiến hành, xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền để hoàn thiện trình ban chấp hành xem xét thông qua. Căn cứ đề án nhân sự và các quy định liên quan, các đảng bộ đã thực hiện quy trình nhân sự, giới thiệu bầu cử hoặc chỉ định ban chấp hành, ban thường vụ, bí thư, phó bí thư, ủy ban kiểm tra, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra bảo đảm cơ cấu, số lượng, đúng quy trình, quy định; nhiều địa phương, đơn vị đã bảo đảm tỉ lệ cán bộ nữ tham gia cấp uỷ (15% trở lên); một số nơi đã quan tâm lựa chọn cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc, cán bộ có trình độ khoa học, công nghệ tham gia cấp uỷ. Những Đảng bộ tổ chức đại hội 4 nội dung đã xác định rõ số lượng, cơ cấu, điều kiện, tiêu chuẩn đối với Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực cấp ủy; giới thiệu nhân sự Ban Chấp hành có cơ cấu cơ bản hợp lý giữa các ban, ngành, địa phương, bảo đảm tỉ lệ đổi mới cấp uỷ; quan tâm đến cơ cấu cán bộ khoa học - công nghệ, cán bộ nữ, tuổi trẻ. Các đảng bộ thực hiện đại hội 02 nội dung (không bầu cấp ủy) đã chủ động xây dựng đề án trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ định cấp ủy, ủy ban kiểm tra, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra cấp ủy.

Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường trực Ban Bí thư đã xem xét chỉ định, giới thiệu 2.294 nhân sự ban chấp hành, 625 nhân sự ban thường vụ và 156 nhân sự lãnh đạo chủ chốt nhiệm kỳ 2025 - 2030, 2026 - 2031 của 34 địa phương (gồm cả chỉ định[4] và giới thiệu nhân sự bầu tại đại hội[5]) bảo đảm kịp thời, kỹ lưỡng, chặt chẽ.

II. KẾT QUẢ ĐẠI HỘI

1. Về tiến độ, nội dung đại hội

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân trong tỉnh tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ, quân và dân Cà Mau anh hùng; đoàn kết, nhất trí, nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, với quyết tâm chính trị cao nhất, chủ động, sáng tạo, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

Đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2025 - 2030 diễn ra từ ngày 11/9/2025 đến 17/10/2025, sớm hơn 12 ngày so với nhiệm kỳ trước (Quảng Ngãi là đảng bộ đầu tiên, Cà Mau là đảng bộ cuối cùng tổ chức đại hội).

Có 27 đảng bộ tiến hành 2 nội dung; 02 đảng bộ tiến hành đại hội 3 nội dung và 11 đại hội tiến hành đại hội 4 nội dung, thời gian đại hội từ 2 - 3 ngày (gồm cả phiên trù bị).

2Công tác tổ chức, điều hành đại hội

- Chương trình đại hội được cấp ủy xây dựng theo đúng Hướng dẫn số 06-HD/TW, ngày 09/6/2025 của Ban Bí thư gồm phiên trù bị và chính thức; việc phân công bảo đảm khoa học, rõ người điều hành, người thực hiện. Phiên trù bị đã thực hiện các nội dung bầu Đoàn Chủ tịch, Đoàn Thư ký, Ban Thẩm tra tư cách đại biểu với số lượng và cơ cấu hợp lý; thông qua Quy chế làm việc, Quy chế bầu cử; một số đại hội đã dành thời gian thảo luận. Phiên chính thức thực hiện việc thảo luận và thông qua các dự thảo văn kiện; công bố kết quả chỉ định hoặc bầu cử cấp ủy theo quy định.

- Công tác chỉ đạo, điều hành Đại hội bảo đảm chặt chẽ, khoa học, đúng quy định và bảo đảm nguyên tắc, yêu cầu, xử lý kịp thời, đúng quy định những vấn đề phát sinh. Một số đại hội đã phát động, tổ chức quyên góp, ủng hộ đồng bào chịu ảnh hưởng, thiệt hại nặng do cơn bão số 10, 11 ngay tại đại hội, thể hiện sâu sắc tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái và truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam

3. Việc thảo luận và thông qua các văn kiện tại đại hội

Hầu hết các đại hội đã quán triệt chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, dành thời gian thỏa đáng để đại biểu thảo luận, đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện đại hội thông qua hình thức chia tổ (chia từ 6 - 10 tổ), thảo luận theo chuyên đề[6]. Việc tổ chức thảo luận các dự thảo văn kiện cơ bản được thực hiện nghiêm túc, dân chủ, trách nhiệm, tập trung vào phân tích, đánh giá thực trạng, kết quả thực hiện những khâu đột phá, mới và những giải pháp cần quan tâm, triển khai trong nhiệm kỳ tới; các báo cáo tham luận trình bày trực tiếp tại Đại hội được rút gọn, cô đọng, bảo đảm thời gian, thời lượng. Các ý kiến thảo luận đều được Đoàn Chủ tịch báo cáo tổng hợp, tiếp thu, chọn lọc xác đáng, thiết thực để hoàn thiện dự thảo văn kiện. Nghị quyết Đại hội được chuẩn bị chu đáo, được Đại hội tán thành biểu quyết thông qua.

Việc ý kiến đóng góp vào các dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng tập trung vào những vấn đề trọng tâm, cốt lõi, liên quan trực tiếp đến công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ; phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và phát triển kinh tế - xã hội[7]. Tại một số đại hội[8] các đại biểu thảo luận các đề án, kế hoạch cụ thể trong Chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội theo tinh thần rõ nội dung, lộ trình, đơn vị cá nhân chủ trì để tổ chức thực hiện ngay sau Đại hội. Đoàn Chủ tịch đã biểu quyết thông qua các báo cáo tổng hợp, tiếp thu góp ý văn kiện với sự thống nhất rất cao của Đại hội.

4. Kết quả bầu cử và chỉ định nhân sự đại hội

Về phương án nhân sự cấp ủy, ủy ban kiểm tra, các Đại hội Đảng bộ các tỉnh, thành phố (hợp nhất, sáp nhập) đã thực hiện công bố các Quyết định của Bộ Chính trị chỉ định Ban chấp hành Đảng bộ, danh sách Đoàn đại biểu dự Đại hội XIV của Đảng. Các Đại hội Đảng bộ các tỉnh, thành phố không sáp nhập đã thực hiện bầu Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2025-2030, đại biểu dự Đại hội XIV của Đảng bảo đảm đúng quy chế bầu cử trong Đảng, không xảy ra sai sót, vi phạm. Kết quả phiếu bầu tập trung, đủ số lượng, tỷ lệ trúng cử cao, đúng theo Đề án được phê duyệt, cụ thể:

4.1. Số lượng cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra và đại biểu dự Đại hội XIV của Đảng

- Kết quả bầu cử (đối với 11 đảng bộ tỉnh, thành phố hợp nhất, sáp nhập): Các đảng bộ đã bầu được 634 uỷ viên ban chấp hành; 164 ủy viên ban thường vụ; 11 bí thư cấp ủy; 32 phó bí thư cấp ủy; 10 chủ nhiệm ủy ban kiểm tra; 353 đại biểu chính thức, 25 đại biểu dự khuyết dự Đại hội XIV của Đảng[9].

- Kết quả chỉ định (đối với 23 đảng bộ tỉnh, thành phố không hợp nhất, sáp nhập: Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ định 1.669 ủy viên ban chấp hành, 461 ủy viên ban thường vụ, 23 bí thư cấp ủy, 99 phó bí thư cấp ủy, 23 chủ nhiệm, Ủy ban kiểm tra; 1069 đại biểu chính thức và 106 đại biểu dự khuyết dự Đại hội XIV của Đảng[10].

4.2. Về cơ cấu, chất lượng cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra của 34 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhiệm kỳ 2025 - 2030

(i) Ban chấp hành: Tổng số có 2.303 đồng chí (giảm 1.028 đồng chí so với nhiệm kỳ trước). Trong đó: trẻ dưới 42 tuổi 89 đồng chí (3,87%); nữ 431 đồng chí (18,71%tăng 2,98% so với nhiệm kỳ trước); là người dân tộc thiểu số 307 đồng chí (13,33%, tăng 1,65% so với nhiệm kỳ trước); có trình độ khoa học, công nghệ 236 đồng chí (10,2%). Số có trình độ chuyên môn trên đại học tăng hơn so với nhiệm kỳ trước, cụ thể: có 1.667 thạc sỹ (tăng 15,25%), 267 tiến sỹ (tăng 2,07%). Độ tuổi bình quân là 50,2 (cao hơn nhiệm kỳ trước 1,39 tuổi).

(ii) Ban thường vụ: Tổng số có 625 đồng chí (giảm 329 đồng chí so với nhiệm kỳ trước). Trong đó: cán bộ trẻ dưới 42 tuổi 02 đồng chí (0,32%); nữ 93 đồng chí (14,88%, tăng 1,99% so với nhiệm kỳ trước); là người dân tộc thiểu số 90 đồng chí (14,40%, tăng 2,56% so với nhiệm kỳ trước). Số có trình độ chuyên môn trên đại học tăng hơn so với nhiệm kỳ trước, cụ thể: 406 thạc sỹ (tăng 12,97%), 95 tiến sỹ (tăng 2,94%). Độ tuổi bình quân là 51,6 (cao hơn nhiệm kỳ trước 1,2 tuổi).

(iii) Bí thư cấp ủy: Tổng số có 34 đồng chí; số tái cử 28 (82,35%); tham gia lần đầu 06 (17,65%); không là người địa phương 29 đồng chí (85,29%). Trong đó, 03 đồng chí 48 tuổi[11]; nữ 02 đồng chí[12] (sau đại hội đã điều động 01 đồng chí về Trung ương), là người dân tộc thiểu số[13] 04 đồng chí (11,76%, tăng 2,53% so với nhiệm kỳ trước). Số có trình độ chuyên môn trên đại học tăng hơn so với nhiệm kỳ trước, cụ thể: 18 thạc sỹ (tăng 5,25%), 11 tiến sỹ (tăng 1,58%). Độ tuổi bình quân của bí thư cấp ủy là 53,8.

Thực hiện chủ trương bí thư tỉnh, thành ủy không là người địa phương, Bộ Chính trị đã điều động, phân công, chỉ định 15 bí thư tại đại hội và sau đại hội một số đảng bộ trực thuộc Trung ương[14], đến ngày 17/10/2025 đã bố trí 34/34 (100%) bí thư tỉnh uỷ, thành ủy không là người địa phương.

(iv) Chủ nhiệm ủy ban kiểm tra[15]Tổng số có 33 đồng chí. Trong đó: nữ 07 (21,2%); là người dân tộc thiểu số 03 (9,09%). Có 17 đồng chí không là người địa phương (51,51%, tăng 45,36% so với nhiệm kỳ trước). Số có trình độ chuyên môn trên đại học tăng hơn so với nhiệm kỳ trước, cụ thể: 26 thạc sỹ (tăng 26,48%), 02 tiến sỹ (tăng 1,44%). Độ tuổi bình quân của chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp ủy là 51,2.

5. Công tác thông tin, tuyên truyền, an ninh, hậu cần phục vụ đại hội

- Công tác thông tin, tuyên truyền phục vụ đại hội được các cấp ủy coi trọng và triển khai sâu rộng. Các cấp ủy trực thuộc Trung ương đã tổ chức họp báo trước và sau đại hội thông tin về công tác chuẩn bị và kết quả đại hội; xuất bản số báo và chương trình truyền hình, phát thanh đặc biệt trong các ngày diễn ra đại hội; tổ chức Trung tâm báo chí phục vụ đại hội, kịp thời cập nhật hình ảnh, diễn biến các phiên làm việc; các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải đậm nét diễn biến, kết quả đại hội với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, tạo không khí phấn khởi[16]; chủ động nắm thông tin dư luận, tích cực đấu tranh, phản bác hiệu quả các quan điểm sai trái, âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng. Nhiều nơi đã tổ chức trưng bày hình ảnh, hiện vật phản ánh trực quan sinh động thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, quốc phòng, an ninh của địa phương, đơn vị đã đạt được trong nhiệm kỳ[17]. Một số địa phương[18] đã khởi công, hoàn thành nhiều công trình chào mừng đại hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua tạo khí thế và niềm tin trước đại hội. Việc trang trí khánh tiết tại các đại hội bảo đảm theo hướng dẫn của Trung ương.

- Công tác bảo đảm an ninh, trật tự, chuẩn bị cơ sở vật chất, lễ tân, hậu cần phục vụ đại hội được triển khai nghiêm túc với phương châm trang trọng, chu đáo, an toàn, tiết kiệm, hiệu quả, thiết thực, không phô trương, hình thức, chống lãng phí[19]. Hầu hết các đại hội đã tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, công nghệ AI trong công tác tổ chức phục vụ đại hội (phần mềm nhận diện khuôn mặt, điểm danh đại biểu bằng Face ID, mã QR[20]; gửi tài liệu cho đại biểu dự đại hội qua QR code, Ipad[21]; tổng hợp phát biểu thảo luận[22]; hỗ trợ đại biểu tra cứu thông tin và gửi ý kiến góp ý[23]); 100% đại hội kiểm phiếu bằng máy tính. Công tác an ninh trật tự được coi trọng và đảm bảo an toàn tuyệt đối trong suốt thời gian diễn ra đại hội.

6. Một số vấn đề cần quan tâm

Sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hướng dẫn đầy đủ, kịp thời của các ban đảng, cơ quan Trung ương và sự tích cực, chủ động của các cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2025 - 2030 đã hoàn thành sớm hơn so với một số nhiệm kỳ gần đây và đạt kết quả rất tốt đẹp. Công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội được triển khai với tinh thần chủ động, tích cực, nghiêm túc bám sát quy định, hướng dẫn của Trung ương bảo đảm tiến độ, yêu cầu, không bị gián đoạn trong quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy.

Chất lượng văn kiện được nâng lên, nhất là các báo cáo chính trị đã có nhiều đổi mới, chú trọng hơn về công tác xây dựng Đảng, sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới; cập nhật, bổ sung những quan điểm, định hướng, chiến lược trong kỷ nguyên mới, gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, đơn vị hành chính. Dự thảo Chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội được xây dựng công phu, bước đầu cụ thể hóa các nhiệm vụ, phân công rõ vai trò, trách nhiệm và lộ trình hoàn thành để tổ chức triển khai thực hiện. Việc thảo luận, đóng góp vào các dự thảo văn kiện đại hội các đảng bộ và Văn kiện Đại hội XIV của Đảng bảo đảm thực chất, dân chủ. Các văn kiện đại hội các đảng bộ thuộc diện hợp nhất, sáp nhập đã đánh giá trên tầm nhìn không gian phát triển mới, xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp bao quát toàn bộ nhiệm vụ, hoạt động và phát huy thế mạnh của đảng bộ mới sau sắp xếp, sáp nhập.

Công tác nhân sự được tập trung chỉ đạo, tham mưu, thực hiện triển khai với quy trình, cách làm chặt chẽ, có nhiều đổi mới, bảo đảm dân chủ, khách quan, công tâm, minh bạch, tạo sự đoàn kết, thống nhất cao, nhất là trong bối cảnh hợp nhất, sáp nhập các địa phương, tổ chức đại hội ngay sau khi sắp xếp tổ chức bộ máy. Việc bầu cử tại đại hội bảo đảm đúng nguyên tắc, thủ tục theo quy định của Điều lệ Đảng và Quy chế bầu cử. Kết quả bầu cử cơ bản theo đúng đề án nhân sự, bảo đảm yêu cầu về số lượng, cơ cấu; chất lượng cấp ủy viên, ủy viên ban thường vụ và cán bộ chủ chốt được nâng lên. Số lượng cấp ủy viên của các tỉnh ủy, thành ủy giảm 28,81% so với nhiệm kỳ trước. Một số đảng bộ đạt tỷ lệ cấp ủy viên trẻ[24], cấp ủy viên nữ[25] và bố trí cán bộ nữ tham gia ban thường vụ[26] ngay từ đầu nhiệm kỳ; đổi mới cấp ủy 32,18%, cơ bản đạt yêu cầu của Chỉ thị 45. Tỷ lệ cấp ủy có trình độ khoa học công nghệ bình quân vượt chỉ tiêu đề ra; hầu hết các đảng bộ đều đạt tỷ lệ cấp ủy có trình độ khoa học công nghệ[27]; tỷ lệ cấp ủy là người dân tộc thiểu số cao hơn nhiệm kỳ trước (1,65%). Đại đa số các đồng chí tham gia cấp ủy được đào tạo bài bản, có phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống tốt, được rèn luyện, trưởng thành từ cơ sở, có năng lực, uy tín, có lập trường, quan điểm, bản lĩnh chính trị vững vàng, đóng góp tích cực vào thành tích của địa phương, đơn vị, được đại hội tín nhiệm cao, hầu hết các chức danh chủ chốt đều đạt tuyệt đối 100%; góp phần nâng cao chất lượng nhân sự cấp ủy và chuẩn bị cho nhân sự Trung ương.

Việc điều động, chỉ định Bí thư, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố gắn với chủ trương không là người địa phương được triển khai quyết liệt, khoa học, hợp lý, đã bố trí 34/34 bí thư tỉnh ủy, thành ủy; 20/34 chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không là người địa phương. Các địa phương đã chủ động thực hiện chủ trương bố trí chủ nhiệm ủy ban kiểm tra tỉnh ủy không là người địa phương, đạt kết quả tích cực tại 17/34 tỉnh ủy, thành ủy.

Việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác tổ chức và điều hành đại hội theo hướng khoa học, hiện đại, hiệu quả, tiết kiệm, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số là một trong những điểm sáng của đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2025-2030.

Cùng với thành công của đại hội cấp cơ sở, đại hội cấp trên trực tiếp cơ sở, thành công của các đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương đã góp phần quan trọng vào công tác chuẩn bị và tổ chức Đại hội XIV của Đảng, là minh chứng cho chủ trương đúng đắn về sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; đồng thời là một trong những yếu tố then chốt tạo nền tảng chính trị vững chắc đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, phồn vinh, thịnh vượng.

Công tác tổ chức đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương cần quan tâm một số vấn đề chủ yếu sau:

- Về nội dung văn kiện: Báo cáo chính trị của một số ít đảng bộ chưa đề ra được các nhiệm vụ, giải pháp thực sự phù hợp với địa phương, đơn vị; chưa gắn với không gian phát triển, tiềm năng, lợi thế sau hợp nhất, sáp nhập. Một số báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của ban chấp hành còn trùng lặp với nội dung báo cáo chính trị; chưa kiểm điểm rõ trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, xây dựng khối đoàn kết nội bộ; trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là địa phương vừa qua có cán bộ bị xử lý kỷ luật.

- Một số dự thảo nghị quyết còn dàn trải, chưa thể hiện đầy đủ những nội dung cốt lõi trong dự thảo báo cáo chính trị; chưa đề ra các giải pháp thực sự đột phá; chưa cập nhật đầy đủ chủ trương, quan điểm chỉ đạo mới của Trung ương. Một số Chương trình hành động chưa thật sự cụ thể, theo đúng chỉ đạo “6 rõ”, bảo đảm có thể thực hiện ngay sau đại hội.

- Việc trình bày tham luận trực tiếp tại đại hội còn hạn chế[28]. Một số tham luận, thảo luận còn trình bày nhiều về kết quả, báo cáo thành tích, chưa có tính tranh luận; còn tập trung nhiều vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội, ít tham gia ý kiến về công tác xây dựng Đảng, quốc phòng - an ninh, đối ngoại…

- Công tác chuẩn bị nhân sự và nắm tình hình trước đại hội ở một số ít đảng bộ chưa kịp thời, kỹ lưỡng. Một số nhân sự dự kiến giới thiệu tham gia ban chấp hành, ban thường vụ, phó bí thư nhiệm kỳ 2025-2030 của một số địa phương có vi phạm khuyết điểm, bị xử lý kỷ luật[29]. Nhiều địa phương thực hiện tỷ lệ cấp ủy trẻ không đạt; tỷ lệ cán bộ nữ[30] và cán bộ khoa học - công nghệ[31] tham gia cấp ủy ở một số nơi còn thấp, chưa bảo đảm yêu cầu. Có nhân sự dự kiến tái cử nhưng không trúng cử[32]; giới thiệu bầu ban thường vụ theo cơ cấu cứng nhưng không được tín nhiệm[33]. Việc ghi phiếu bầu cử[34] và kiểm phiếu[35] ở một số đại hội chưa thật sự khoa học, ảnh hưởng đến thời gian của đại hội.

Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế là do: (1) Các đảng bộ trực thuộc Trung ương vừa triển khai khối lượng công việc rất lớn liên quan đến chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, hợp nhất các đảng bộ nên gặp khó khăn trong đổi mới cấp ủy và bảo đảm một số cơ cấu theo yêu cầu. (2) Một số ít cấp ủy, nhất là người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo còn chưa bao quát toàn diện, chưa thường xuyên kiểm tra, giám sát; chưa nắm chắc tình hình và giải quyết kịp thời, dứt điểm những vấn đề phát sinh. (3) Một số vụ án, vụ việc có tính chất phức tạp, cần thời gian kết luận của các cơ quan chức năng liên quan đến phương án nhân sự đại hội. (4) Do ảnh hưởng của tình hình bão, lũ đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác chuẩn bị, tổ chức đại hội.

Một số kinh nghiệm rút ra:

Một là, công tác chuẩn bị, tổ chức đại hội phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, toàn diện của Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là đồng chí Tổng Bí thư và cấp ủy các cấp; phân công rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm và thường xuyên kiểm tra, giám sát, xử lý kịp thời vấn đề phát sinh.

Hai là, nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, đặc biệt là sự đoàn kết, nêu gương của cấp ủy, nhất là lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu trong bối cảnh hợp nhất, sáp nhập các địa phương, thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp; làm tốt công tác tư tưởng, nắm chắc tình hình, chủ động, kịp thời định hướng thông tin, dư luận, đảm bảo sự thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động trong cán bộ, đảng viên.

Ba là, thực hiện nghiêm Điều lệ Đảng, các nguyên tắc, quy định, quy chế của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá trình chuẩn bị, tổ chức đại hội; có tư duy đổi mới, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh, tình hình và linh hoạt, ứng biến theo điều kiện cụ thể của từng đảng bộ.

Bốn là, Văn kiện đại hội phải cập nhật đầy đủ các quan điểm chỉ đạo, chủ trương mới nhất của Trung ương, bám sát tinh thần dự thảo các Văn kiện Đại hội XIV của Đảng; quá trình xây dựng văn kiện phải phát huy dân chủ, lấy ý kiến rộng rãi, phát huy trí tuệ tập thể của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và Nhân dân; tiếp thu tinh thần đổi mới, sáng tạo trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân.

Năm là, công tác chuẩn bị nhân sự đại hội phải bám sát các chỉ thị, quy định, hướng dẫn của Trung ương, giữ vững nguyên tắc, tiến hành chặt chẽ, đúng quy trình, quy định, thẩm quyền, tiêu chuẩn, điều kiện, minh bạch, thận trọng, kỹ lưỡng, làm đến đâu chắc đến đó, bảo đảm khách quan, công tâm và có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan liên quan, nhất là trong công tác thẩm định nhân sự.

Sáu là, cùng với việc chuẩn bị và tổ chức đại hội, phải lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm chăm lo đời sống nhân dân, gắn với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin và chuyển đổi số.

7. Một số nhiệm vụ cần tập trung triển khai ngay sau đại hội:

Một là, khẩn trương hoàn thiện và ban hành ngay các quy chế làm việc, chương trình làm việc toàn khoá, chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội; kiện toàn, phân công các đồng chí uỷ viên ban chấp hành, ban thường vụ, phó bí thư, bí thư và kiện toàn các chức danh lãnh đạo hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân, sở, ngành theo phương án nhân sự, bảo đảm dân chủ, khách quan, đúng quy trình, tạo sự đồng thuận và phát huy tinh thần đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, đẩy mạnh phong trào thi đua, tạo khí thế mới, niềm tin mới trong tổ chức hành động; đồng thời quán triệt, triển khai đến cấp cơ sở, đưa ngay nghị quyết đại hội vào cuộc sống, trước mắt tập trung thực hiện đạt và vượt mức các nhiệm vụ năm 2025 đã đề ra.

Hai là, hoàn thiện đồng bộ thể chế liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị để phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với cải cách thủ tục hành chính bảo đảm hiệu quả, phù hợp với chính quyền địa phương 2 cấp. Triển khai thực hiện nghiêm các quy định mới về công tác cán bộ, đặc biệt là công tác đánh giá cán bộ bảo đảm dân chủ, công khai, công tâm, khách quan theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, có tiêu chí gắn với hiệu quả, kết quả thực hiện nhiệm vụ, thông qua sản phẩm cụ thể.

Ba là, tiếp tục triển khai chủ trương bố trí 100% các chức danh chủ tịch uỷ ban nhân dân, chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra, chánh thanh tra tỉnh không phải là người địa phương, hoàn thành trước ngày 15/12/2025.

Bốn là, tăng cường công tác tuyên truyền, định hướng dư luận; bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ bí mật nhà nước; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh vô hiệu hoá các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước; phản bác các quan điểm sai trái, thông tin xuyên tạc, xấu độc, nhất là trên không gian mạng liên quan đến công tác chuẩn bị đại hội; xử lý nghiêm các vi phạm.

Năm là, tập trung chuẩn bị tốt các công việc tổ chức Đại hội XIV của Đảng. Thường trực các Tiểu ban nghiên cứu tiếp thu ý kiến tham gia góp ý từ đại hội đảng các cấp; ý kiến đại biểu Quốc hội và các tầng lớp nhân dân, trí thức, nhà khoa học... để hoàn thiện Dự thảo Văn kiện trình Hội nghị Trung ương 15. Tiếp tục chuẩn bị các nội dung về nhân sự và các điều kiện cần thiết để tổ chức thành công Đại hội XIV của Đảng.

Sáu là, tổ chức tốt việc tổng kết công tác năm 2025 và triển khai nhiệm vụ năm 2026. Chuẩn bị sớm các công việc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XVI và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031./.

(Nguồn: Văn phòng Trung ương Đảng)

-----------

Chú thích:

[1] Hướng dẫn số 32-HD/TBVK, ngày 11/6/2025 của Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng.

[2] Kết luận số 123-KL/TW, ngày 24/01/2025; số 199-KL/TW, ngày 10/10/2025; Nghị quyết sổ 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo vả chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết sổ 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính tri vể đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết sổ 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo; Nghị quyết số 72-NQ/TW về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân…

[3] Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Thanh Hóa, Hưng Yên, Nghệ An, Quảng Ngãi, An Giang…

[4] Chỉ định 1.672 nhân sự ban chấp hành, 462 nhân sự ban thường vụ và 118 nhân sự lãnh đạo chủ chốt.

[5] Giới thiệu 622 nhân sự bầu tham gia ban chấp hành, 163 nhân sự tham gia ban thường vụ và 38 nhân sự lãnh đạo chủ chốt.

[6] Kết quả có 3.631 lượt ý kiến phát biểu, trong đó 403 tham luận tại đại hội và 3.228 ý kiến tại các tổ thảo luận.

[7] Khánh Hòa có 45 ý kiến; Quảng Ninh có 73 ý kiến; Vĩnh Long có 27 ý kiến; Quảng Ngãi có 87 ý kiến; Đảng bộ Quân đội: 57 ý kiến; Đảng ủy Chính Phủ có 75 ý kiến thảo luận, tham gia vào dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng.

[8] Lào Cai, Hải Phòng…

[9] 13 đảng bộ (gồm cả Đảng bộ Quân đội và Đảng bộ Công an).

[10] Gồm 23 tỉnh ủy, thành ủy hợp nhất, sáp nhập và 4 đảng bộ trực thuộc Trung ương.

[11] (1) Đồng chí Trịnh Việt Hùng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên đã được Bộ Chính trị điều động, phân công giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai. (2) Đồng chí Trịnh Xuân Trường, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai đã được Bộ Chính trị điều động, phân công giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên. (3) Đồng chí Nguyễn Hồ Hải được Bộ Chính trị chỉ định tiếp tục giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Cà Mau nhiệm kỳ 2025 - 2030.

[12] Hà Nội, Quảng Ngãi.

[13] Lâm Đồng, Sơn La, Tuyên Quang, Lạng Sơn.

[14] Cần Thơ, Phú Thọ, Ninh Bình, Gia Lai, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Lào Cai, Thái Nguyên, Quảng Ngãi, Sơn La, Lạng Sơn, Đà Nẵng, Thành phố Huế, Quảng Trị, Đắk Lắk.

[15] Riêng Nghệ An chưa bầu chủ nhiệm ủy ban kiểm tra.

[16] Vĩnh Long, Đồng Nai, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Hà Tĩnh, Lạng Sơn, Đồng Tháp, Tây Ninh, Đảng bộ cơ quan Đảng Trung ương, Lai Châu…

[17] Đảng bộ Chính Phủ, Đảng bộ Quân đội, Đảng bộ Công an Trung ương, Đảng bộ các cơ quan Đảng Trung ương, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hà Nội, Hưng yên, Quảng Ninh, Đồng Tháp, Lạng Sơn, Khánh Hòa, An Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long…

[18] Thanh Hóa, Điện Biên, Hưng Yên, Khánh Hòa, Tây Ninh, Cần Thơ, Vĩnh Long, Bắc Ninh, Đảng bộ Quân đội, Đảng bộ Công an, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Hải Phòng, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Thành phố Huế, Ninh Bình…

[19] Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An, Đảng bộ Hải Phòng, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã chủ trương không tổ chức văn nghệ, không nhận hoa chúc mừng, không nhận quà và không sử dụng giấy tờ.

[20] Đảng ủy các cơ quan Đảng Trung ương, Khánh Hòa, Nghệ An, Đắk Lắk, An Giang, Hải Phòng, Bắc Ninh, Lào Cai, Tây Ninh, Hà Tĩnh, Hà Nội…

[21] Cà Mau, Đảng ủy Công an Trung ương, Quân ủy Trung ương, Hải Phòng, Đảng ủy các cơ quan Đảng Trung ương, Khánh Hòa, Nghệ An, Đắk Lắk, An Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Chính Phủ, Cần Thơ, Đồng Tháp, Quảng Ninh, Hưng Yên, Lâm Đồng, Tây Ninh, Lai Châu, Hà Nội,…

[22] Cà Mau, Đảng ủy Công an Trung ương, Tây Ninh…

[23] Đồng Nai, Hà Nội.

[24] có 02 đảng bộ đạt tỷ lệ cấp ủy trẻ từ 10% trở lên, gồm: Cao Bằng và Lai Châu.

[25] Có 25/34 đảng bộ đạt tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy: Cao Bằng, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Lào Cai, Thái Nguyên, Phú Thọ, Hưng Yên, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Gia Lai, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Lai Châu, Sơn La, Lạng Sơn, Hà Tĩnh, TP Huế, Vĩnh Long, Điện Biên.

[26] 30/31 đảng bộ có cán bộ nữ trong ban thường vụ.

[27] 29/34 đảng bộ đạt, trong đó 09 đảng bộ đạt tỷ lệ trên 15%: Thái Nguyên (21,54%); Hưng Yên (20%); Đắk Lắk (25,81%); Thành phố Hồ Chí Minh (15,45%); Tây Ninh (19,4%); Đồng Tháp (18,87%); An Giang (15,15%); Cần Thơ (23,38%); Quảng Ninh (23,64%).

[28] TP Hồ Chí Minh, TP Hà Nội có 03, Quảng Ngãi có 04; Đắk Lắk, Cà Mau có 05; Phú Thọ có 06 tham luận trình bày tại Hội trường.

[29] Thanh Hoá có 10 trường hợp, trong đó: 02 trường hợp dự kiến tái cử Phó Bí thư, 02 trường hợp dự kiến tái cử ban thường vụ, 06 trường hợp dự kiến tái cử ban chấp hành. Khánh Hoà có 03 trường hợp, trong đó: 02 trường hợp dự kiến giới thiệu phó bí thư; 01 trường hợp dự kiến giới thiệu ban thường vụ; 01 trường hợp dự kiến giới thiệu tái cử ban chấp hành.

[30] Bắc Ninh (12,68%), Hải Phòng (14,1%), Ninh Bình (14%), Quảng Trị (14,52%), Lâm Đồng (12,77%), Cà Mau (10,71%), Hà Nội (14,67%), Thanh Hóa (11,59%), Nghệ An (14,71%).

[31] Ninh Bình (2%), Gia Lai (3,33%), Vĩnh Long (1,2%), Thanh Hóa (2,9%), Cao Bằng (3,64%).

[32] Thanh Hóa: 01 đồng chí giới thiệu tái cử nhưng không trúng cử Ban Chấp hành.

[33] Nghệ An: nhân sự dự kiến không trúng cử Ủy viên Ban Thường vụ do đó không có nhân sự bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện để bầu Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy.

[34] Cao Bằng

[35] Quảng Ninh

Theo:baocaovien.vn

CÁC TIN ĐÃ ĐĂNG

Tổng số: 3006 | Trang: 1 trên tổng số 301 trang  
Xem tin theo ngày:   / /