KHẢO CỨU TÊN GỌI VÀ ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH TỈNH TUYÊN QUANG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ

Thứ Năm, ngày 27 tháng 11 năm 2025 - 10:00 Đã xem: 28

Tuyên Quang là vùng đất lâu đời nằm ở vị trí chiến lược quan trọng thuộc lãnh thổ Việt Nam; từ xa xưa miền đất thượng du này luôn đảm nhận vai trò phên giậu vững chắc của Tổ Quốc, là địa danh thân thiết và thiêng liêng gắn liền với những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Trải qua quá trình hình thành và phát triển, Tuyên Quang có nhiều thay đổi về tên gọi, địa giới hành chính.

Theo Việt sử thông giám cương mục: Đời Hùng Vương xưa, Tuyên Quang thuộc bộ Vũ Định; Nhà Tần, thuộc quận Nam Hải; nhà Hán thuộc quận Giao Chỉ; nhà Ngô thuộc quân Giao Châu; nhà Đường là Dương Châu. Đến thế kỷ X, trong quá trình xây dựng n nước độc lập tự chủ, triều đình phong kiến dân tộc đã bắt đầu chia đặt đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, giai đoạn này trong các đạo, lộ của nhà Đinh, Tiền Lê và thời Lý chưa có tên gọi Tuyên Quang.

Đến thời nhà Trần, lần đầu tiên tên gọi Tuyên Quang xuất hiện trong thư tịch cổ với tên gọi lộ Tuyên Quang. Bài minh văn khắc trên quả chuông ở Bạch Hạc Thông Thánh quán (tỉnh Phú Thọ), đúc năm Đại Khánh thứ 8, thời vua Trần Minh Tông (năm 1321) có nói về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên của quân dân nhà Trần như sau: Giáp thân đông quý, Bắc khấu lai xâm, thời Khai quốc vương trấn thủ Tuyên Quang chư lộ… nghĩa là: Cuối đông Giáp Thân (1285), giặc Bắc đến xâm lược, bấy giờ Khai Quốc Vương (Trần Nhật Duật) trấn thủ ở các lộ Tuyên Quang... Đến năm 1397, triều đình nhà Trần đặt Tuyên Quang làm trấn, một đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, sau đó đổi thành châu Tuyên Quang. Tuy nhiên, từ thời Trần trở về trước nền hành chính của Tuyên Quang chưa ổn định. Bấy giờ, Tuyên Quang là vùng đất của các tù trưởng dân tộc thiểu số, họ lấy "Châu" làm lãnh thổ của riêng mình (các Châu Kimi), ít phụ thuộc hoặc phụ thuộc lỏng lẻo vào triều đình phong kiến trung ương, như: Châu Đô Kim (nay là Hàm Yên), Châu Vị Long (nay là Chiêm Hóa)... do đó, các vị vua triều Lý-Trần đều sử dụng chính sách "viễn nhu" để bảo đảm an ninh biên cương và giữ khối đoàn kết dân tộc.

Năm Quang Thái thứ 10 (1397), Hồ Quý Ly đổi tên lộ Tuyên Quang thành trấn Tuyên Quang gồm 9 huyện là: huyện Khoáng, huyện Ất, huyện Dương, huyện Đương Đạo, huyện Văn Yên, huyện Bình Nguyên, huyện Thu Vật, huyện Đại Man, huyện Đáy Giang. Đứng đầu là chức Phiêu kỵ đại tướng quân. Hình dung địa bàn trấn Tuyên Quang lúc bấy giờ gồm 2 tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang, một phần tỉnh Yên Bái và một phần tỉnh Cao Bằng ngày nay. Khi giặc Minh đô hộ nước ta đổi đặt nước ta làm quận Giao Chỉ. Về địa lý hành chính, nhà Minh đã đặt nền hành chính Tuyên Quang vào "Phủ" gọi là Phủ Tuyên Quang sau đó đổi là châu Tuyên Hóa và Phủ Tuyên Hóa. Đứng đầu phủ là tri phủ, đứng đầu huyện là tri huyện.     

Sau chiến thắng quân Minh, nền độc lập dân tộc được khôi phục và giữ vững. Lê Lợi lên ngôi (1428) và sáng lập ra triều đại Lê. Dưới Thời Lê sơ (thế kỷ XV-XVI), để tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với các miền biên viễn, Lê Thái Tổ chia cả nước là 5 đạo: Nam đạo, Bắc đạo, Đông đạo, Tây đạo và Hải-Tây đạo. Dưới đạo chia làm trấn, lộ, phủ, huyện, châu và cuối cùng là xã. Vùng đất Tuyên Quang (bao gồm cả Hà Giang) lúc đó thuộc vào Tây đạo. Đến năm Quang Thuận thứ 7 (năm 1466), Lê Thánh Tông chia nước ta thành 12 đạo thừa tuyên, đặt thừa tuyên Tuyên Quang gồm một phủ (thủ phủ là Yên Bình), một huyện (Phúc Yên) và 5 châu: Thu Vật, Lục Yên, Đại Man, Bình Nguyên, Bảo Lạc. Đứng đầu Đạo thừa tuyên là Đô ty, dưới là Thừa ty. Năm 1469, vua Lê Thánh Tông định lại bản đồ 12 đạo thì Đạo thừa tuyên Tuyên Quang có 1 phủ (Yên Bình), 1 huyện (Phúc Yên) và 5 châu: Thu Vật, Lục Yên, Đại Man, Bình Nguyên, Bảo Lạc; tổng cộng 223 xã, 11 phường, 2 thôn, 1 trang, 7 động. Đến năm Hồng Đức 21 (1490), Đạo Thừa Tuyên đổi tên là xứ Tuyên Quang, tên phủ, huyện không thay đổi.

Khi Gia Quốc Công Vũ Văn Mật có công phò Lê đánh Mạc được cai quản một vùng đất rộng lớn gồm xứ Tuyên Quang và phủ Hưng Hóa (Phú Thọ và Vĩnh Phúc) đặt tên là Dinh An Tây (Trung tâm là đất Đại Đồng, nay thuộc xã An Khang". Dòng họ Vũ thế tập 5 đời tổng cộng 142 năm kể từ Vũ Văn Uyên năm Thống Nguyên thứ 6 (1527) đến năm Cảnh Trị thứ 7 (1669). Năm 1669, Vũ Công Tuấn trên đường từ kinh thành về thực hiện mưu đồ phản nghịch bị Lưu thủ kinh thành là Điện quận công Trịnh Ác đem quân đuổi theo giết chết. Sau sự kiện này, nhà Lê bỏ quyền thế tập của dòng họ Vũ, chia vùng nay thành 2 trấn: Tuyên Quang và Hưng Hóa, đặt lưu quan cai trị như trước.

Đầu triều Nguyễn (thế kỷ XIX), tên gọi các đơn vị hành chính Tuyên Quang cơ bản vẫn giữ như thời Lê. Năm 1831, vua Minh Mạng tiến hành cải cách hành chính trong cả nước, chia định địa hạt từ Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh gồm: Quảng Bình, Quảng Trị, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Nội, Ninh Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên, Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Cao Bằng. Khi được chia định, địa giới tỉnh Tuyên Quang bao gồm phủ Yên Bình, huyện Hàm Yên, châu Vị Xuyên, châu Đại Man, châu Lục Yên, châu bảo Lạc và châu Thu vật. Tuyên Quang trở thành một tỉnh dưới quyền kiểm soát của Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên. Các sử thần triều Nguyễn trong Đại Nam nhất thống chí nhận xét khá rõ về vị trí địa - chính trị của Tuyên Quang như sau: “Hình thế sông núi: Mặt ngoài khống chế tỉnh Vân Nam, mặt trong liền Cao Bằng và Thái Nguyên, phía đông suốt đến Sơn Tây và Hưng Hóa, đều là miền thượng du xứ Bắc Kỳ. Núi cao thì có Vân Trung và Ngọc Mạo, sông lớn thì có sông Lô, sông Gâm và sông Chảy, các đồn bảo Tuyên Tĩnh và Yên Biên, giữ vững ở mặt trong, đấy là phên giậu của trung châu, cũng là nơi địa đầu quan yếu. Toàn bộ vùng đất tỉnh Tuyên Quang lúc bấy giờ, chính là Tuyên Quang (bao gồm Tuyên Quang và Hà Giang cũ); các xã thuộc huyện Yên Bình (cũ) huyện Lục Yên (cũ) thuộc tỉnh Yên Bái (nay là Lào Cai), huyện Bảo Lạc (cũ), huyện Bảo Lâm (cũ) của tỉnh Cao Bằng.

Thời Pháp thuộc, tổ chức hành chính tỉnh Tuyên Quang có nhiều biến đổi. Trước năm 1888, tỉnh Tuyên Quang gồm phủ Yên Bình với hai huyện là Hàm Yên và Vĩnh Tuy; phủ Tường Yên với ba huyện là Vị Xuyên, Vĩnh Điện và Để Định; hai châu là Chiêm Hóa và Lục Yên. Ngày 18/4/1888, Thống sử Bắc Kỳ ra nghị định nhập phủ Đoan Hùng của tỉnh Sơn Tây (gồm các huyện Ngọc Quang, Hùng Quan, Sơn Dương) vào Tuyên Quang. Ngày 6/6/1890, tách châu Lục Yên ra khỏi Tuyên Quang để sáp nhập vào Lào Cai. Đến ngày 9/9/1891, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định xóa bỏ tỉnh Tuyên Quang và phân chia địa bàn của tỉnh vào địa bàn đạo Quan binh số 2 và 3. Ngày 20/8/1891 Toàn Quyền Đông Dương ra Quyết định Khu quân sự thứ hai chia thành 3 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang. Ngày 17/9/1895, Toàn quyền Đông Dương ra Quyết định chia quân khu quân sự thành ba tỉnh Tuyên Quang, Bắc Quang, Hà Giang. Ngày 11/4/1900 tỉnh Tuyên Quang được thành lập lại với phủ Yên Bình gồm hai huyện là Hàm Yên và Sơn Dương cùng châu Chiêm Hóa (thuộc phủ Tương Yên). Ngày 28/4/1904, Toàn quyền Đông Dương ra Quyết định sáp nhập tỉnh Bắc Quang và tỉnh Hà Giang thành Đạo quan binh ba Hà Giang. Năm 1913, đổi huyện Sơn Dương thành châu Sơn Dương. Năm 1916, tách huyện Hàm Yên thành huyện Yên Sơn và châu Hàm Yên, cắt phủ Tương An (Yên Ninh cũ) và 3 huyện: Bảo Lạc (cũ), Vị Xuyên, Vĩnh Tuy đặt làm tỉnh Hà Giang, cắt châu Lục Yên sáp nhập vào tỉnh Yên Bái (nay là Lào Cai).

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Tuyên Quang tiếp tục có sự điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Yên Bình được tách từ tỉnh Tuyên Quang nhập vào tỉnh Yên Bái (nay là Lào Cai), huyện Bảo Lạc được tách ra khỏi tỉnh Tuyên Quang để nhập về tỉnh Cao Bằng.

Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, năm 1976, tỉnh Tuyên Quang được sáp nhập với tỉnh Hà Giang thành tỉnh Hà Tuyên. Do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, năm 1991, tỉnh Hà Tuyên lại được chia tách thành hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang.

Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới, ngày 12/4/2025 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 60-NQ/TW về việc thực  hiện chính quyền 02 cấp, theo đó quyết định hợp nhất tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Hà Giang lấy tên là tỉnh Tuyên Quang. Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 16/6/2025 Ủy Ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1684/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Tuyên Quang năm 2025, theo đó tỉnh Tuyên Quang có tổng diện tích tự nhiên 13.795,6km2, quy mô dân số trên 1.8 triệu người, 124 đơn vị hành chính cấp xã gồm 117 xã và 7 phường. Đây là bước đi có ý nghĩa chiến lược trong việc sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đồng thời mở ra không gian phát triển mới, toàn diện và bền vững cho khu vực Trung du - Miền núi phía Bắc.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Việt sử thông giám cương mục: Tập I, Nxb. Giáo dục, năm 1998.

2. Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB. Thuận Hóa, Huế, năm 1994.

3. Đại Nam nhất thống chí: Nxb Khoa học xã hội, năm 1971.

4. Hà Giang - 10 năm đấu trang, xây dựng và phát triển (1891-2021), Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2001.

5. Kỷ yếu Hội thảo khoa học xác định thời điểm thành lập tỉnh Tuyên Quang, Nxb. Khoa học xã hội, năm 2012.

                                                                                           

CÁC TIN ĐÃ ĐĂNG

Tổng số: 145 | Trang: 1 trên tổng số 15 trang  
Xem tin theo ngày:   / /