Hằng năm, một sự kiện thường niên diễn ra vào ngày 11/7, đó là Ngày Dân số Thế giới (World Population Day), nhằm nâng cao nhận thức của nhân loại về các vấn đề dân số toàn cầu.

Ảnh minh họa. Nguồn ảnh: Internet.
Hiện nay, dân số toàn thế được thống kê chính thức là 7,674 tỷ dân vào năm 2019, dự đoán là 7,79 hoặc 7,795 tỷ người vào năm 2020 và 7.9 tỷ vào năm 2021 [1]. Chúng ta gần đây đã chứng kiến những thay đổi lớn về tỷ lệ sinh và tuổi thọ. Vào đầu những năm 1970, trung bình mỗi phụ nữ có 4,5 con; đến năm 2015, tổng mức sinh trên thế giới giảm xuống dưới 2,5 con/phụ nữ. Trong khi đó, tuổi thọ trung bình toàn cầu đã tăng, từ 64,6 tuổi vào đầu những năm 1990 lên 72,6 tuổi vào năm 2019. Ngoài ra, thế giới đang chứng kiến mức độ đô thị hóa cao và tốc độ di cư tăng nhanh. Năm 2007 là năm đầu tiên nhiều người sống ở thành thị hơn ở nông thôn và đến năm 2050, khoảng 66% dân số thế giới sẽ sống ở thành phố.
Trong năm thứ hai của cuộc chiến chống lại COVID-19, loài người đang ở trạng thái trung gian, nơi các khu vực trên thế giới đang có dấu hiệu phục hồi từ đại dịch trong khi một số nơi khác có nơi chưa thể tiếp cận với vắc-xin. Câu chuyện dân số lần đầu tiên được đặt ra với bối cảnh phức tạp đến thế và sự khác biệt giữa các quốc gia trong suốt đại dịch về tác động, quá trình chuyển đổi nhân khẩu học, phản ứng chính sách và cách đối phó, điều kiện kinh tế - xã hội… hoàn toàn khác biệt [2]. Trong bối cảnh khó khăn đó, những đối tượng tiếp tục chịu ảnh hưởng nặng nề nhất vẫn là các đối tượng dễ bị tổn thương bao gồm: trẻ em, người già, phụ nữ, người lao động di trú, người có thu nhập thấp hoặc việc làm không ổn định. Với những tính chất đặc biệt, năm nay, chủ đề của Ngày Dân số Thế giới là “Quyền và Sự lựa chọn là câu trả lời: Dù tăng hay giảm, giải pháp để thay đổi tỷ lệ sinh vẫn nằm ở việc ưu tiên sức khỏe sinh sản và quyền của mọi người.”
Đại dịch covid-19 đã và đang làm tổn hại đến hệ thống chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản. Nó cũng làm bộc lộ và làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng trên cơ sở giới. Trong bối cảnh đó, nhiều quốc gia đang bày tỏ lo ngại ngày càng tăng về việc thay đổi tỷ lệ sinh. Tất cả các luồng xu hướng kể trên đã tạo nên một cơn bão ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, việc làm, phân phối thu nhập và các biện pháp bảo vệ xã hội. Chúng cũng ảnh hưởng đến các nỗ lực đảm bảo khả năng tiếp cận phổ cập đến chăm sóc sức khỏe, giáo dục, nhà ở, vệ sinh, nước, thực phẩm và năng lượng. Phụ nữ nói riêng, loài người nói chung phải được quan tâm về mặt giáo dục, kinh tế và xã hội để đảm bảo việc lựa chọn đối với cơ thể và khả năng sinh sản của họ.
Về chính sách dân số, tại Trung Quốc và Ấn Độ, hai quốc gia có số dân đông nhất cũng có rất nhiều biến động về chính sách dân số trong giai đoạn hiện nay. Nếu Trung Quốc có thay đổi về bãi bỏ chính sách một con kéo dài hàng thập niên thay thế bằng giới hạn sinh hai con và hiện nay sinh tới ba con, là biểu hiện cho sự ảnh hưởng của sụt giảm đáng kể về tỉ lệ sinh ở quốc gia này. Thì Ấn Độ lại tiếp tục duy trì chính sách dân số giảm tỷ lệ sinh và cuối cùng là giảm tỷ lệ phát triển dân số, và đấu tranh loại bỏ vấn nạn tảo hôn, vi phạm quyền của phụ nữ. Trong khi đó, tại các quốc gia Bắc Âu, nơi đứng đầu về hệ thống phúc lợi xã hội, chính sách dân số đều đồng loạt áp dụng chính sách khuyến sinh.
Có thể nói, một xu hướng mà Liên hợp quốc khuyến cáo cũng như các quốc gia trên thế giới đều nhận được, đó là: Tỷ lệ sinh ở những khu vực có nền tảng kinh tế - xã hội càng cao thì đang ngày càng giảm và ngược lại. Ở Việt Nam hiện có 2 xu hướng là, nơi có mức sinh thấp tiếp tục có xu hướng giảm sâu và ngày càng lan rộng; ngược lại nơi có xu hướng tăng lại vẫn tiếp tục tăng cao trở lại. Cụ thể, trong 21 tỉnh, thành phố của cả nước có mức sinh thấp, có một số tỉnh mức sinh ở mức rất thấp, tập trung ở khu vực Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải miền Trung, có quy mô dân số là 37,9 triệu người, chiếm khoảng 39,4% dân số cả nước. Trong khi đó, tại vùng Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, mức sinh lại có xu hướng tăng cao trở lại.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do tỷ lệ sinh ở một khu vực phụ thuộc vào trình độ nhận thức, giáo dục, mức độ và khả năng tiếp cận việc làm, kinh tế và xã hội của các cá nhân. Rõ ràng giải pháp được đề cập đến trong chủ đề Ngày dân số của năm nay mà Liên hợp quốc đưa ra đã nhấn mạnh tính gắn bó vấn đề dân số với con người về học tập và tiếp cận bình đẳng. Trong đó, chúng ta phải hiểu rằng học vấn là công cụ hết thảy mọi người đều phải tự trang bị, không phân biệt đẳng cấp, khoảng cách giàu nghèo. Có không ít các khu vực trên thế giới, không được tiếp cận với giáo dục, không được tiếp cận ý nghĩa của luật pháp, có thật nhiều con nhưng lại không khả năng chăm sóc, dạy dỗ.
Những thành tựu tại Việt Nam, đó chính là xu hướng hưởng ứng nhận thức chung của tình hình thế giới mà Liên hợp quốc đã đề ra, tiếp tục duy trì sự phát triển quy mô dân số theo hướng bảo đảm các chỉ số về mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ, sức khỏe, tri thức và một số nhân tố khác, cho thấy một cái nhìn tổng quát về sự phát triển của Quốc gia.
Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam là 0,704. Với kết quả này Việt Nam đã lọt vào danh sách các nước phát triển con người cao và được xếp thứ 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ [3]. Theo Báo cáo Hạnh phúc Thế giới 2021 (World Happinesss Report) của Liên Hợp Quốc, Việt Nam tăng hạng từ thứ 83 lên 79 [4].Với những kết quả kể trên, có thể nói Việt Nam đang đi đúng hướng và đã tìm được giải pháp trong quá trình phát triển quy mô dân số của đất nước với thế giới.
[1]. Theo số liệu về dân số của Liên hợp quốc, Nguồn: United Nations, Department of Economic and Social Affairs, Population Division (2019). World Population Prospects 2019, Online Edition. Rev. 1.
[2]. https://www.un.org/en/observances/world-population-day
[3]. Báo Nhân dân, Chỉ số phát triển con người của Việt Nam tăng vượt bậc, https://nhandan.vn/binh-luan-phe-phan/chi-so-phat-trien-con-nguoi-cua-viet-nam-tang-vuot-bac-629395/
[4]. http://www.baochinhphu.vn/Quocte/Viet-Nam-tang-hang-ve-chi-so-hanh-phuc/426434.vgp
Đỗ Hồng Thanh