
Làng văn hóa, du lịch thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương. Nguồn ảnh: baotuyenquang.com.vn
Trọng tâm là, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tỉnh lãnh đạo, triển khai tổ chức thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII; tham mưu hoàn thành các nghị quyết, đề án, chương trình, kế hoạch phát triển nông, lâm nghiệp, xây dựng nông thôn mới; các cơ chế, chính sách hỗ trợ trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.... Tập trung phát triển các vùng sản xuất sản hàng hóa theo tiêu chuẩn, quy chuẩn, Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP)... Đến nay, sản xuất nông, lâm nghiệp cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu theo kế hoạch; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp thủy sản đạt 4.150 tỷ đồng; trồng mới trên 11.224 ha rừng, đạt 108,4% kế hoạch; sản lượng khai thác gỗ rừng trồng đạt 673.492 m3, đạt 70,5% kế hoạch năm 2021; chú trọng công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn FSC đạt trên 35.800 ha.
Chủ động nắm bắt và hỗ trợ kịp thời, giải quyết những khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, thủy sản, nhất là do bị ảnh hưởng của dịch Covid-19. Công tác quản lý nhà nước về nông, lâm nghiệp, thủy lợi, xây dựng nông thôn mới có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết công việc của ngành được tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng cơ quan, đơn vị từng bước được quan tâm, chú trọng hơn.Trong 8 tháng đầu năm 2021, Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của tỉnh đã khắc phục khó khăn, triển khai thực hiện toàn diện các mặt công tác và đạt kết quả quan trọng, cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra. Trọng tâm là, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tỉnh lãnh đạo, triển khai tổ chức thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII; tham mưu hoàn thành các nghị quyết, đề án, chương trình, kế hoạch phát triển nông, lâm nghiệp, xây dựng nông thôn mới; các cơ chế, chính sách hỗ trợ trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.... Tập trung phát triển các vùng sản xuất sản hàng hóa theo tiêu chuẩn, quy chuẩn, Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP)... Đến nay, sản xuất nông, lâm nghiệp cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu theo kế hoạch; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp thủy sản đạt 4.150 tỷ đồng; trồng mới trên 11.224 ha rừng, đạt 108,4% kế hoạch; sản lượng khai thác gỗ rừng trồng đạt 673.492 m3, đạt 70,5% kế hoạch năm 2021; chú trọng công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn FSC đạt trên 35.800 ha.
Tuy nhiên, Ngành nông nghiệp chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế để thực hiện hiệu quả vai trò "nền tảng, trụ đỡ" tạo điều kiện cho các ngành kinh tế phát triển; công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền về các chính sách, giải pháp có tính đột phá trong phát triển nông nghiệp còn hạn chế; việc dự báo những tác động, ảnh hưởng của thị trường đến sản xuất, chế biến, tiêu thụ hàng hóa nông sản chưa được quan tâm đúng mức. Công tác quản lý nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ có lúc, có lĩnh vực chưa chặt chẽ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao, nhất là công tác quản lý, bảo vệ rừng, có lúc, có nơi còn đế xảy ra các vi phạm về khai thác, vận chuyến trái phép lâm sản. Công tác kiểm tra, giám sát chưa được chú trọng.
Việc triển khai các chính sách về nông, lâm nghiệp, thủy sản còn chậm, hiệu quả chưa cao. Nông nghiệp phát triển còn chậm, sản xuất nhò lẻ, thiếu tính liên kết, năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh hạn chế, thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp thuần túy, giá trị gia tăng thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông sản chưa đáp ứng nhu cầu thị trường, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ trong nông nghiệp còn chậm; phát triển công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp còn hạn chế; công tác quảng bá, xúc tiến thương mại, dự báo thị trường, tìm kiếm kênh tiêu thụ mới chưa được đẩy mạnh; việc xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, sản xuất sản phẩm theo tiêu chuẩn, quy chuẩn còn hạn chế.
Hoạt động của hệ thống dịch vụ nông nghiệp, hệ thống khuyến nông chậm đổi mới, hiệu quả chưa cao, nhất là việc hướng dẫn, tập huấn nâng cao kiến thức cho người dân về sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, mô hình kinh tế tuần hoàn còn hạn chế. Thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ còn ít. Tổ chức liên kết sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phấm hàng hóa còn yếu; hỗ trợ xây dựng, phát triển, nhân rộng hình thức sản xuất theo chuỗi giá trị còn hạn chế; liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình chưa chặt chẽ, chưa bền vững...
Theo đó, 4 tháng cuối năm 2021 và giai đoạn 2022-2025 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập trung thực hiện một số nội dung trọng tâm sau:
1- Chủ động, tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai, tổ chức thực hiện hiệu quả những định hướng, chỉ đạo về phát triển nông nghiệp, thủy sản của Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và của tỉnh; chủ động phối hợp, trao đổi với các bộ, ngành, Trung ương, nhất là với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ, hỗ trợ nguồn lực, hỗ trợ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, khoa học công nghệ tiên tiến, định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn, đảm bảo nông nghiệp, nông dân, nông thôn của tỉnh có sự phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp theo. Khẩn trương triển khai thực hiện các nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; kế hoạch, đề án của Ủy ban nhân dân tỉnh về nông nghiệp, nông thôn, các chương trình, dự án đã được phê duyệt.
2- Tập trung thực hiện hiệu quả Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển nông nghiệp hàng hóa, nhất là đối với nhóm cây trồng chủ lực của tỉnh (lúa, cam, bưởi, chè, lạc, keo, mía...). Cơ cấu lại các vùng sản xuất theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế các vùng sản xuất hàng hóa. Đẩy mạnh liên kết sản xuất, mở rộng các vùng sản xuất hữu cơ, vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, truy xuất nguồn gốc, để nâng cao khả năng cạnh tranh, giá trị gia tăng của các sản phẩm; phát huy các giá trị của cây trồng bản địa gắn với chuyển đổi cơ cấu theo hướng nghiên cứu, bổ sung một số loại cây trồng mới có năng suất, giá trị gia tăng cao để đưa vào sản xuất. Khẩn trương thực hiện cấp mã số vùng trồng cho một số loại cây trồng chủ lực theo kế hoạch; làm tốt công tác dự tính, dự báo về các yếu tố đầu vào (giống, vật tư, nhân lực, kỹ thuật, vốn đầu tư...), thị trường tiêu thụ sản phẩm để phát triển sản xuất hàng hóa theo tiêu chuẩn và yêu cầu của thị trường. Phấn đấu đến năm 2025 tỉnh có sản phẩm nông nghiệp đạt tiêu chuẩn thương hiệu Quốc gia, hướng tới đạt tiêu chuẩn thương hiệu quốc tế. Tích cực tham khảo, học tập cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả về phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản chất lượng cao của địa phương, nhất là các tỉnh có những đặc điểm tương đồng về phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản.
Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, tập trung phát triển chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò...) ở những nơi có lợi thế theo hướng sử dụng con giống chất lượng cao, giống bản địa có giá trị kinh tế, chăn nuôi tập trung theo chuỗi giá trị, khắc phục tình trạng chăn nuôi nhỏ lẻ, manh mún. Phát huy lợi thế diện tích mặt nước sông, hồ để đẩy mạnh phát triển nuôi thủy sản, phát triển nuôi các loài cá bản địa, cá đặc sản có giá trị kinh tế cao ở những vùng có điều kiện phù hợp gắn với bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, từng bước xây dựng thương hiệu thủy sản Tuyên Quang.
Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Đề án của Ủy ban nhân dân tỉnh về phát triển lâm nghiệp bền vững tỉnh Tuyên Quang, giai đoạn 2021-2030. Quản lý, bảo vệ chặt chẽ diện tích rừng tự nhiên, bảo vệ bảo vệ môi trường sinh thái, phát huy các giá trị của rừng, gắn với phát triển du lịch. Nghiên cứu, xây dựng phương án bảo vệ rừng tự nhiên theo hướng hiệu quả, bền vững; đề xuất cơ chế, chính sách hỗ trợ gắn với trách nhiệm bảo vệ cho chủ rừng, tổ chức, các cá nhân nhận giao khoán bảo vệ rừng tự nhiên. Đánh giá hiệu quả hoạt động của lực lượng tuần rừng, tham mưu chính sách đối với lực lượng tuần rừng đảm bảo phù hợp với thực tiễn. Xây dựng chương trình, đề án thí điểm kinh doanh tín chỉ các-bon rừng để triển khai thực hiện. Đẩy mạnh liên kết nghiên cứu, đánh giá, quảng bá, giới thiệu về tính đa dạng sinh học trong hệ sinh thái rừng của tỉnh, nhất là tại các khu bảo tồn thiên thiên tại các địa phương, nhằm phát huy, nâng cao giá trị rừng Tuyên Quang cả trong nước và quốc tế.
Tập trung phát triển rừng trồng sản xuất, kết hợp trồng các loại cây dược liệu, chăn nuôi dưới tán rừng, nâng cao thu nhập cho các tổ chức, cá nhân tham gia quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Chú trọng nâng cao chất lượng rừng trồng bằng các giống cây lâm nghiệp chất lượng cao, các cây trồng lâm nghiệp bản địa đa tác dụng, có hiệu quả kinh tế cao; phát triển mở rộng diện tích trồng rừng gỗ lớn có chứng chỉ FSC, đáp ứng nhu cầu chế biến, đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu. Kiểm tra, đánh giá chất lượng giống cây lâm nghiệp theo chính sách hỗ trợ, đảm bảo phát huy hiệu quả, nâng cao chất lượng giống cây lâm nghiệp. Đánh giá hiệu quả hoạt động của các công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên lâm nghiệp, thí điểm thực hiện thuê giám đốc điều hành đối với một số công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên lâm nghiệp thuộc tỉnh quản lý để đảm bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả.
Nghiên cứu, liên kết với các Viện nghiên cứu cây trồng, các Trường Đại học để phát triển, mở rộng các cơ sở sản xuất giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất, chất lượng cao phục vụ phát triển nông, lâm nghiệp của tỉnh và các địa phương trong khu vực. Tổ chức lại sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đế sản xuất theo vùng tập trung; chế biến sâu các sản phẩm chủ lực, đặc sản, có giá trị gia tăng cao; thay đổi tư duy sản xuất nhỏ lẻ, manh mún sang sản xuất tập trung quy mô lớn, đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả, khuyến khích, hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt của các hợp tác xã nông, lâm nghiệp và các tổ hợp tác, nhất là phát triển các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, các mô hình liên kết sản xuất, chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm đạt hiệu quả cao. Quan tâm hỗ trợ các điều kiện sản xuất, kinh doanh (giống, khoa học kỹ thuật, vật tư, nguyên liệu sản xuất...) đi đôi với kết nối thị trường đầu ra cho sản phẩm hàng hóa của nhân dân, của doanh nghiệp; phát triển thị trường tiêu thụ nội địa đi đôi với tìm kiếm thị trường xuất khẩu sản phẩm đảm bảo ổn định, có tính bền vững cao.
3- Ứng dụng mạnh mẽ tiến bộ kỹ thuật và khoa học công nghệ cho sản xuất, đặc biệt là ứng dụng những thành tựu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ số trong nông nghiệp, nông thôn; đội ngũ cán bộ khuyến nông nêu cao tinh thần trách nhiệm, hướng dẫn người dân trong việc ứng dụng, đưa các giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt, kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, ứng dụng các tiến bộ khoa học vào các khâu chế biến, bảo quản để nâng cao năng suất, giá trị gia tăng của sản phẩm. Nhân rộng các mô hình sản xuất theo quy trình sản phẩm sạch, nông nghiệp hữu cơ hiệu quả kinh tế cao.
Tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, thị trường tiêu thụ nông sản trên các trang thông tin điện tử, mạng xã hội. Xây dựng, hỗ trợ phát triển mạnh giao dịch thương mại điện tử đối với các sản phẩm nông, lâm nghiệp, thủy sản. Phát triển mạnh thương hiệu các sản phẩm hiện có, tiếp tục xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho một số sản phẩm chủ lực. Chủ động phối hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành của tỉnh, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố, rà soát cân đối nguồn lực đầu tư công để thực hiện các chương trình, đề án, kế hoạch theo hướng cụ thể; thường xuyên trao đổi, làm việc để thảo luận, thống nhất các giải pháp quản lý về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, Chương trình OCOP... Tăng cường công tác quản lý nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ được giao, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tham mưu, điều hành, quản lý, nhất là quản lý các công trình, dự án, đảm bảo phù hợp, đúng quy định, phát huy hiệu quả nguồn vốn, tránh thất thoát, lãng phí.
4- Rà soát, điều chỉnh, bổ sung Kế hoạch xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 của tỉnh bảo đảm phù hợp với định hướng của Trung ương để triển khai thực hiện đạt hiệu quả, trong đó tập trung tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về vai trò chủ thể, quyền lợi của người dân trong xây dựng nông thôn mới; nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu, nhất là các tiêu chí liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân như: tiêu chí về thu nhập, nhà ở dân cư, xóa nhà tạm, nhà dột nát, tỷ lệ hộ nghèo, môi trường. Chú trọng phát triển kinh tế trong xây dựng nông thôn mới, nâng cao nhận thức của người dân để thay đổi tư duy từ phát triển sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp, trong đó khuyến khích ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuấn quốc tế; phát triển các trang trại, gia trại nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái gắn với phát huy giá trị bản sắc văn hóa của các dân tộc để phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch trải nghiệm ở khu vực nông thôn, thúc đấy phát triển kinh tê nông thôn, góp phần hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới. Phát huy vai trò các hợp tác xã, để các hợp tác xã thực sự là cầu nối trong liên kết, hợp tác giữa người sản xuất với các doanh nghiệp và thị trường, thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Các doanh nghiệp có vai trò hỗ trợ, đầu tư, định hướng cho người nông dân trong sản xuất hàng hóa, đảm bảo các tiêu chuẩn, quy chuẩn đáp ứng yêu cầu của thị trường nội địa và xuất khẩu.
Xây dựng nông thôn mới gắn với quá trình đô thị hóa, quy hoạch sắp xếp lại dân cư nông thôn theo hướng nhanh và bền vững, từng bước hình thành và phát triển đô thị ở khu vực nông thôn, những nơi có điều kiện, vừa nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, vừa làm động lực thúc đẩy cho phát triển của vùng nông thôn lân cận.
5- Tiếp tục thực hiện các giải pháp về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, bảo đảm thông thoáng, thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, nhất là việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết các thủ tục hành chính, tập trung thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Tiếp tục nghiên cứu, rà soát, đề xuất, kiến nghị đơn giản hóa các thủ tục hành chính, rút gọn các thủ tục đầu tư xây dựng trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy lợi, phát triển nông thôn... Rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy các đơn vị trực thuộc bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn, khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, gương mẫu, trách nhiệm, tận tụy, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chuyên ngành. Chú trọng công tác quản lý cán bộ, nâng cao năng lực và trách nhiệm thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức ngành nông nghiệp.
6- Chú trọng nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là xây dựng khối đại đoàn kết, thống nhất trong tập thể lãnh đạo, tổ chức Đảng và tập thể cơ quan; thực hiện có hiệu quả Đề án số 03-ĐA/TU ngày 12/6/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo Đề án số 16-ĐA/TU ngày 03/01/2020 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Thực hiện nghiêm túc việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện hiệu quả việc đột phá, đổi mới; kiểm tra, theo dõi việc triển khai thực hiện giao việc đột phá, đổi mới đối với lãnh đạo, cán bộ quản lý cấp phòng, đơn vị trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đảm bảo phát huy hiệu quả./.
Nguyễn Đình Lộc