Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và các đại biểu dự Đại hội XIII của Đảng, tháng 1-2021_Ảnh: Tư liệu
Những thành tựu về phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam, chính đảng đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam ngay từ khi ra đời đã trở thành đảng cầm quyền. Từ đó đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, các thành viên trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trên cơ sở vận dụng các nguyên lý về đảng chính trị và lý luận xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn, kinh nghiệm thế giới và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định được các phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền đúng đắn, phù hợp. Đó là hệ thống các phương pháp, cách thức mà Đảng xác lập để tác động, định hướng, chế định, điều khiển, kiểm soát việc tổ chức và hoạt động của các thành viên trong hệ thống chính trị, đặc biệt là bộ máy nhà nước để cụ thể hóa, thể chế hóa và tổ chức thực hiện mục tiêu, lý tưởng, các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng qua mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ. Qua thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, nhất là trong công cuộc đổi mới, nội dung và phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng ngày càng được xác định rõ và hoàn thiện hơn. Nhờ đó, các cơ sở, thể chế cầm quyền, điều kiện bảo đảm cho sự cầm quyền và năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ngày càng được củng cố, với những thành tựu nổi bật sau đây:
Thứ nhất, Đảng trở thành lực lượng chính trị duy nhất có quyền xác lập, đưa ra Cương lĩnh, chủ trương, đường lối lãnh đạo Nhà nước, các thành viên trong hệ thống chính trị và các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội. Bằng đường lối lãnh đạo, cầm quyền đúng đắn, Đảng đã đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được khẳng định trong các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vai trò này không chỉ được xác lập ở cấp Trung ương mà còn được xác lập và tổ chức thực hiện, được chấp hành ở các cấp hành chính lãnh thổ địa phương, ở các cơ quan, đơn vị trong toàn bộ hệ thống chính trị. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” đã sớm được khẳng định và thực thi bằng các quy định chặt chẽ trong Điều lệ Đảng, Hiến pháp và các quy định của pháp luật, cũng như các quy chế, quy định của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, các hội quần chúng.
Thứ hai, Đảng xây dựng và thiết lập được hệ thống tổ chức của Đảng chặt chẽ và tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính 4 cấp của Nhà nước, được lập ở tất cả các đơn vị hành chính lãnh thổ từ cơ sở trở lên, ở các cơ quan của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Hiện nay, hệ thống tổ chức của Đảng gồm 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương, trên 1.285 đảng bộ cấp huyện, 54.349 tổ chức cơ sở đảng. Toàn Đảng có trên 5,1 triệu đảng viên hoạt động trong tất cả các tổ chức, bộ máy của Đảng, Nhà nước, các thành viên khác của hệ thống chính trị; các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập; các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội. Các cấp đảng bộ, với hạt nhân là các cấp ủy, là cơ quan lãnh đạo của Đảng ở mỗi cấp giữa hai kỳ đại hội, do đại hội đảng bộ cùng cấp bầu ra. Các tổ chức cơ sở đảng là những hạt nhân chính trị, thực hiện sự lãnh đạo để bảo đảm mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, tiến hành công tác xây dựng Đảng, đồng thời là “cầu nối” giữa Đảng với nhân dân. Đội ngũ đảng viên của Đảng có vai trò, trách nhiệm tiên phong, gương mẫu đi đầu trong tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thứ ba, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tư tưởng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội, từ việc xác lập, xây dựng đến truyền bá, phổ biến, giáo dục, bổ sung, phát triển nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, Đảng thường xuyên lãnh đạo xây dựng tổ chức, bộ máy, cán bộ và hoạt động của hệ thống thiết chế công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, đó là các hội đồng lý luận ở Trung ương, các cơ quan tuyên giáo, cơ quan thông tấn, báo chí, xuất bản, đội ngũ báo cáo viên, phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên và đội ngũ giáo viên, giảng viên lý luận chính trị ở các cơ sở đào tạo, các học viện, nhà trường... để phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng trong từng giai đoạn, từng thời kỳ, với từng đối tượng.
Thứ tư, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị, các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập. Vai trò lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ của Đảng đã được quy định chặt chẽ trong Điều lệ, nghị quyết, quy chế, quy định của Đảng; quy chế hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; trong điều lệ, quy chế, quy định về tổ chức, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập. Đây là cơ sở chính trị, pháp lý hết sức quan trọng, giúp Đảng xây dựng và kiểm soát được toàn bộ hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, đặc biệt là bộ máy nhà nước cũng như các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội. Tuyệt đại đa số các vị trí quan trọng trong cơ quan, bộ máy nhà nước và các tổ chức khác của hệ thống chính trị, ở các lĩnh vực trọng yếu đều do cán bộ là đảng viên đảm nhiệm. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có trách nhiệm tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng trong phạm vi địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức, lĩnh vực và thẩm quyền, trách nhiệm được Đảng giao phó.
Thứ năm, Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang nhân dân. Đây vừa là quyền, là nguyên tắc cơ bản, tất yếu; vừa là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng được xác lập và củng cố; là nhân tố bảo đảm sự ổn định chế độ chính trị, an ninh, trật tự, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bảo toàn lợi ích quốc gia. Vai trò lãnh đạo này của Đảng ngày càng được tăng cường và củng cố bởi các quy định của Điều lệ Đảng, của Hiến pháp, pháp luật và các thiết chế, cơ chế, quy chế, quy định, điều lệnh, kỷ luật trong Quân đội và Công an. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng Quân đội và Công an ngày càng được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ thăm và làm việc tại Trung tâm Dữ liệu quốc gia về dân cư, Bộ Công an_Ảnh: TTXVN
Thứ sáu, Đảng thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Chấp hành kỷ luật đảng cũng đồng thời đòi hỏi phải chấp hành pháp luật của Nhà nước và ngược lại. Với bộ máy kiểm tra, giám sát của Đảng từ Trung ương đến cơ sở; với hệ thống các quy chế, quy định điều chỉnh, kiểm soát hoạt động của mọi tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên; cùng với việc phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước, những biểu hiện lệch lạc, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều có thể bị phát hiện và xử lý nghiêm minh. Kết quả kiểm tra, giám sát trong Đảng, nhất là nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng vừa qua, là minh chứng nổi bật cho cách thức thực hiện này. Bằng công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật mà Đảng giữ vững được kỷ luật, kỷ cương, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, năng lực cầm quyền, thể hiện ý chí và quyết tâm chính trị của Đảng, thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh chính trị, Điều lệ, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Với các phương pháp, cách thức cầm quyền dân chủ, khoa học và phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ từng thời kỳ của Đảng, nên sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung, sự nghiệp đổi mới đất nước nói riêng đã đạt được những thắng lợi và thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đó là thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, đưa nước Việt Nam từ một nước nông nghiệp nghèo, thiếu lương thực, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thấp kém so với các nước trong khu vực trở thành một nước đang phát triển, một cường quốc xuất khẩu gạo và thủy sản; nền kinh tế luôn duy trì mức tăng trưởng cao, bình quân GDP 10 năm trở lại đây đạt trung bình 6%/năm. Việt Nam là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới; dự trữ ngoại hối tăng nhanh qua các năm, đạt mức kỷ lục gần 100 tỷ USD năm 2020; hệ thống chính trị ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; dân chủ trong Đảng và trong xã hội được phát huy. Những thành tựu tổng hợp nói trên đã đưa đến những kết quả thuyết phục trên mọi lĩnh vực, như đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng lên, thu nhập bình quân đầu người năm 2020 đạt 2.779 USD; quy mô nền kinh tế đạt 343,6 tỷ USD; tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu năm 2020 đạt 543,9 tỷ USD, tăng 3,6 lần so với năm 2010; hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển nhảy vọt, với mức đầu tư 9% - 10% GDP hằng năm; quan hệ đối ngoại ngày càng rộng mở, với trên 190 nước, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với tất cả các nước lớn; có quan hệ kinh tế - thương mại với trên 220 nước và vùng lãnh thổ, tạo điều kiện cho thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng tăng. Những thành tựu đó đã được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định tại Đại hội XIII của Đảng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(1).
Cùng với những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội, thước đo khẳng định vững chắc năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, Đảng đã xây dựng được thể chế chính trị ổn định với cơ chế tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Hệ thống chính trị, với nòng cốt, trụ cột là bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đang được xây dựng và củng cố, có đủ khả năng quản lý và điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước.
Các tổ chức chính trị - xã hội là tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân; đoàn kết, tập hợp, tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Thể chế đó ngày càng khẳng định sự phù hợp và tính ưu việt của chế độ chính trị ở nước ta, cả trong thời kỳ kháng chiến cũng như trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay; được tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân tin tưởng, ủng hộ.
Một số hạn chế, bất cập trong phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng hiện nay
Bên cạnh những thành công và những thắng lợi, thành tựu là cơ bản, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng còn một số hạn chế, bất cập, cần được nhận diện một cách nghiêm túc, khoa học.
Thứ nhất, hạn chế, bất cập trong nhận thức lý luận về đảng cầm quyền, nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng.
Mặc dù Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng hơn 91 năm, trong đó có hơn 75 năm cầm quyền; tuy nhiên, khái niệm về đảng cầm quyền, nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng dường như vẫn là vấn đề còn mới mẻ, thậm chí trong một thời gian dài, vấn đề này không được đặt ra nghiên cứu một cách bài bản, đúng mức. Đến Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”(2). Đại hội XIII của Đảng tiếp tục chỉ rõ “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới”(3).
Hiện nay, trong Đảng vẫn có những ý kiến khác nhau về chức năng lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Có ý kiến cho rằng, lãnh đạo là nói đến chức năng, nhiệm vụ xuyên suốt của Đảng. Đảng lãnh đạo cả trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và cả sau khi giành được chính quyền. Theo đó, nội hàm khái niệm “Đảng lãnh đạo” rộng hơn nội hàm khái niệm “Đảng cầm quyền”. Có ý kiến khác lại cho rằng, khái niệm “Đảng lãnh đạo” không gắn với quyền lực chính trị, đó chỉ là sự tác động, định hướng, tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tạo ảnh hưởng của Đảng đối với hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân. Có ý kiến đi sâu hơn về học thuật thì cho rằng, nói “Đảng cầm quyền” là đề cập đến quyền lực chính trị của Đảng sau khi giành được chính quyền, nghĩa là vai trò lãnh đạo, kỹ năng lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền nhà nước. Vì vậy, sau khi giành được chính quyền, cần nhấn mạnh một cách cụ thể vai trò, trách nhiệm và các cách thức để Đảng kiểm soát, điều hành bộ máy chính quyền nhà nước. Nếu chỉ nhấn mạnh vai trò lãnh đạo chung, thì chưa thể hiện hết vai trò, trách nhiệm cầm quyền của Đảng.
Vậy, vấn đề đặt ra là “Đảng lãnh đạo” và “Đảng cầm quyền” có phải là hai khái niệm đồng nhất? Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, phải chăng phương thức lãnh đạo cũng là phương thức cầm quyền của Đảng? Theo đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đồng nghĩa với nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng? Những bất cập trong nhận thức này dẫn đến những hạn chế nhất định về xác định nội dung, phương thức lãnh đạo cũng như nội dung, phương thức cầm quyền; hạn chế trong việc xác định chủ trương, đường lối, giải pháp lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Vì thế, những vấn đề như: Là một đảng lãnh đạo trong điều kiện có chính quyền, Đảng phải làm gì? Đảng phải lãnh đạo như thế nào? Là một đảng duy nhất cầm quyền, Đảng cần phải “cầm”, “nắm” những gì? Đảng cầm quyền bằng những phương pháp, cách thức nào? Làm thế nào để nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả cầm quyền của Đảng?... đều cần có sự phân định và luận giải tường minh.
Thứ hai, hạn chế, bất cập trong xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Mục đích tối thượng, cao nhất của Đảng Cộng sản chân chính cầm quyền là vì hạnh phúc, lợi ích của nhân dân. Đảng ta đã xác định, ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Theo đó, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, từ nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Một trong những cách lãnh đạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý cán bộ, đảng viên cần luôn tâm niệm là: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”(4). Tuy nhiên, trong việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn có những bất cập so với yêu cầu này. Một số chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy do các cơ quan tham mưu đề xuất chưa thực sự được nghiên cứu, tổng kết thực tiễn kỹ lưỡng; chưa đánh giá, dự báo những tác động, ảnh hưởng một cách đầy đủ, khoa học. Hiện nay, chưa có quy định cụ thể về việc lấy ý kiến của nhân dân tham gia đóng góp xây dựng các chủ trương, nghị quyết. Tương tự như vậy, một số chính sách công mới chỉ được ban hành dựa trên những nhận thức và mong muốn chủ quan của các cơ quan quản lý nhà nước, sự tham gia đề xuất và góp ý của người dân và doanh nghiệp với tư cách là đối tượng thụ hưởng, chịu sự tác động của chính sách còn rất hạn chế; vì vậy, khó tránh khỏi tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, “lợi ích nhóm”, cục bộ. Trình độ, năng lực của một số cán bộ, công chức trực tiếp tham gia xây dựng, hoạch định chính sách, pháp luật còn hạn chế. Bên cạnh đó, do tầm nhìn và ý chí chủ quan, nên có chính sách đưa vào thực thi đã nảy sinh nhiều bất cập hoặc hiệu lực, hiệu quả thực thi không cao. Một số dự thảo luật đưa ra Quốc hội thảo luận chưa tạo được sự đồng tình, thống nhất cao.
Các đại biểu nghiên cứu các cuốn sách tiêu biểu tại không gian trưng bày sách, báo phục vụ Đại hội XIII của Đảng_Ảnh: TTXVN
Thứ ba, hạn chế, bất cập trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Lịch sử lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho thấy tầm quan trọng và sức mạnh to lớn của công tác tư tưởng của Đảng, trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trước bối cảnh, tình hình mới có nhiều biến đổi mau lẹ, khó lường, sự phát triển của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, trình độ dân trí và dân chủ ngày càng được nâng cao, đòi hỏi công tác tư tưởng, lý luận của Đảng cần phải được đổi mới mạnh mẽ. Các văn kiện của Đảng những năm gần đây đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém, bất cập của công tác tư tưởng, lý luận nói chung, việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nói riêng. Văn kiện Đại hội IX của Đảng nhận định: “Công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới để phục vụ việc hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã hội”(5). Văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới”(6). Văn kiện Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”(7). Tiếp đến, Văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước”(8). Văn kiện Đại hội XII của Đảng còn nhấn mạnh: “Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu quả những hạn chế của công tác tư tưởng như thiếu sắc bén, chưa thuyết phục... Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới”(9). Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh những hạn chế, bất cập này.
Thứ tư, hạn chế, bất cập về cán bộ và công tác cán bộ, đảng viên của Đảng.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị được xác định là một phương thức lãnh đạo đặc biệt quan trọng; đồng thời, cũng là cách thức cầm quyền tất yếu của Đảng. Đội ngũ cán bộ, nhất là những cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, các ngành vừa thực hiện chức trách, nhiệm vụ theo chức danh, chức vụ, vị trí việc làm được pháp luật quy định; nhưng với tư cách là cán bộ, đảng viên của Đảng, vừa có trách nhiệm quán triệt, tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Tuy nhiên, như Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đã nhận định: “nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế… Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, những nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp;... trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”. Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội,... trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi(10).
Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng hướng dẫn đồng bào cách phòng, chống dịch COVID-19_Ảnh: TTXVN
Nghị quyết số 26-NQ/TW còn nhấn mạnh: Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ 20 năm qua là nhân tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước(11).
Cùng với những bất cập như trên trong công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, công tác đảng viên và đội ngũ đảng viên của Đảng cũng có những hạn chế, bất cập, tạo nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Đó là, vấn đề suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng; động cơ vào Đảng không đúng đắn, ý thức chấp hành kỷ luật đảng không nghiêm; việc nêu gương, tính tiền phong gương mẫu của đảng viên trước quần chúng còn hạn chế. Còn có những biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, tư tưởng cơ hội, thực dụng trong các tổ chức đảng cần được nhanh chóng nhận diện rõ và có giải pháp khắc phục kịp thời.
Thứ năm, hạn chế, bất cập trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng.
Trong những năm gần đây, Đảng ta đã rất coi trọng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Công tác này đã đạt được những kết quả rất quan trọng, từ việc xây dựng, ban hành các quy chế, quy định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, được đảng viên và nhân dân đồng tình, đánh giá cao. Mặc dù vậy, Đại hội XIII của Đảng nhận định, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu trong tình hình mới; chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều ở các cấp. Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy chưa đi vào nền nếp. Công tác giám sát ở các cấp chưa thường xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng còn hẹp; hiệu quả phát hiện, cảnh báo, phòng ngừa vi phạm còn hạn chế. Việc thi hành kỷ luật đảng ở một số nơi chưa nghiêm, còn hiện tượng nể nang, né tránh, ngại va chạm. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm.
Có thể khẳng định, những hạn chế, bất cập trong phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng nêu trên, ở các mức độ khác nhau đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đến uy tín của Đảng, niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bởi vậy, cùng với việc nhận diện những hạn chế, bất cập, việc nghiên cứu, tìm kiếm, đề xuất những giải pháp để khắc phục, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện hiện nay là vấn đề rất quan trọng và cấp bách, đòi hỏi phải phát huy nhiều hơn nữa vai trò, trách nhiệm, trí tuệ của các cấp ủy, tổ chức đảng, của tất cả cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng./.
---------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 217
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 199
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 330
(5) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 629
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 65
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 172 - 173
(8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 67, 192 - 193
(10) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 47 – 48
(11) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Sđd, tr. 50
Theo PGS, TS. Dương Trung Ý, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh/tapchicongsan.org.vn