Cán bộ, chiến sỹ đảo Trường Sa tuần tra trên bờ biển. Nguồn ảnh: Internet
Sinh thời, Người luôn quan tâm đặc biệt đến biển, đảo Tổ quốc và dành nhiều tình cảm cho quân và dân vùng biển, đảo. Điều này không chỉ được thể hiện ở các bức thư, bài viết của Bác mà còn thể hiện ở trong các cuộc đi thăm, nói chuyện với nhân dân vùng biển. Bởi lẽ vị trí, vai trò của biển, đảo là hết sức quan trọng, thể hiện trên một số nội dung sau:
Thứ nhất, đối với phát triển kinh tế.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định, biển ta là “biển bạc”, chứa nhiều tài nguyên phong phú và quý hiếm - là một trong những nguồn lực to lớn góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, Người khuyên mỗi người dân Việt Nam phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Người thường xuyên đến thăm nhân dân và chiến sĩ vùng biển, đảo để tìm hiểu, khảo sát và chỉ đạo phát triển kinh tế biển. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của các cảng biển, đề cao phát triển vận tải biển. Người cũng sớm nhận thấy vai trò của biển đảo đối với sự phát triển của kinh tế du lịch. Khi đến thăm tỉnh Quảng Ninh, Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi đồng chí Chủ tịch tỉnh Quảng Ninh: “Chú có muốn làm giàu kiếm nhiều đô la không? Vị lãnh đạo tỉnh còn chưa kịp hiểu ý, thì Người đã nói tiếp: “Chú dùng trực thăng, sáng chở khách ra đảo chơi, tối chở họ về thì tha hồ hốt bạc”[1].
Thứ hai, đối với sự phát triển văn hóa - xã hội.
Đối với chủ tịch Hồ Chí Minh, biển đảo là một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Vùng trời, dòng sông, vùng biển quê hương là nơi in dấu lòng yêu nước cháy bỏng, trí tuệ, bản lĩnh, lòng tự hào của dân tộc Việt Nam, nơi diễn ra những chiến công hiển hách trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của cha ông.
Từ năm 1910, khi dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết, Bình Thuận) – nơi có bãi biển Thương Chánh, Người đã khơi dậy tinh thần yêu nước cho học trò và nhân dân nơi đây.
Năm 1911, từ một cửa biển cực Nam của Tổ quốc – bến Nhà Rồng (Sài Gòn), Người lấy tên là Văn Ba theo đường biển sang Pháp bắt đầu hành trình ra đi tìm đường cứu nước. Những cảng biển: Singapore, Sri Lanka, Á’id – Ai Cập, Marseille – Pháp… đã in dấu chân của người thanh niên yêu nước ấy. Chính từ hành trình đó, Người đã tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa để làm hình thành ở Người “nền văn hóa của tương lai” (lời của nhà văn Liên Xô Ôxíp Manđenxtam).
Thứ ba, đối với đảm bảo an ninh quốc gia, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thấy rõ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của biển, đảo Việt Nam đối với sự phát triển toàn diện đất nước, nhất là đối với sự nghiệp bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền dân tộc.
Với quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân phải có đầy đủ các quân chủng, binh chủng, ngay sau khi miền bắc được giải phóng (năm 1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng lực lượng chuyên trách bảo vệ vùng biển từ Móng Cái đến vĩ tuyến 17, đặt nền móng ra đời Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân Hải quân nhân dân Việt Nam ngày nay.
Ngay khi Nghị quyết Trung ương 15 (1959) vừa ra đời, Ðảng ta và Bác Hồ đã quyết định hình thành con đường vận tải chiến lược nối hậu phương với tiền tuyến. Tháng 5/1959, Ðoàn 559 ra đời. Lực lượng nòng cốt đầu tiên của Ðoàn gồm hai Tiểu đoàn 301 và 603. Tiểu đoàn 301 vận tải đường bộ, còn nhiệm vụ của Tiểu đoàn 603 là nghiên cứu chi viện vũ khí cho chiến trường bằng đường biển.
Đặc biệt, năm 1961, thực hiện sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đoàn 125 với mật danh “Đoàn tàu không số” được xây dựng để mở đường chiến lược trên biển để vận chuyển, chi viện cho miền Nam. Chỉ 15 năm (từ 1961 đến 1975), “Đoàn tàu không số” đã cùng với các lực lượng hải quân đưa hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ và phương tiện vũ khí tiến đánh, giải phóng các đảo và quần đảo Trường Sa, góp phần giành thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta.
Từ vị trí quan trọng của biển, đảo, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh và xây dựng các thế trận quốc phòng toàn dân trên các vùng biển, đảo. Đảng ta đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 20/10/2018) đã đưa ra tầm nhìn xa nhất so với tất cả các chiến lược hiện có. Tầm nhìn xa là bằng chứng cho thấy mức độ ưu tiên cao và tầm quan trọng tăng lên của vị trí, vai trò cũng như tính chất dài hạn của chiến lược biển giai đoạn mới so với các chiến lược khác trong phát triển kinh tế Việt Nam. Nó còn cho thấy tư duy vượt trội về kinh tế biển trong giai đoạn phát triển mới.
Bên cạnh tầm nhìn xa hơn đáng kể, giá trị cốt lõi đưa đất nước trở thành quốc gia “mạnh về biển” và “giàu từ biển” trong chiến lược biển 2020 được bổ sung thêm các giá trị cốt lõi khác như “dựa vào biển” và “hướng ra biển” trong Chiến lược kinh tế biển bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Hệ thống giá trị cốt lõi của chiến lược có tính đầy đủ, vững vàng và tính định hướng cao hơn.
Vừa qua, trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, đánh giá 02 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, thận trọng xem xét bối cảnh quốc tế và tiềm lực quốc gia, Đại hội hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định kinh tế biển là một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để đưa Việt Nam đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Phấn đấu đến năm 2030, quy mô kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển bằng 65-70% GDP cả nước. Các đảo có người dân sinh sống có hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản đầy đủ, nhất là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục[2].
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn tập hợp, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thế và lực mạnh mẽ trong việc phát huy giá trị kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay, thiết nghĩ cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi người dân trong việc phát huy giá trị kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Hai là, tăng cường vai trò trong việc chỉ đạo thống nhất, liên ngành các nội dung liên quan đến thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế biển nhằm khắc phục những hạn chế của quản lý đơn ngành như hiện nay; ban hành văn bản hướng dẫn đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW. Chỉ đạo các địa phương thành lập và tổ chức hoạt động có hiệu quả Ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ở 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển.
Ba là, đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật, công nghệ trong phát triển kinh tế biển; tăng cường bảo vệ môi trường.
Bốn là, xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam và các lực lượng vững mạnh, theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ để quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, thềm lục địa của Tổ quốc; phát triển kinh tế một cách hiệu quả nhằm khai thác tốt tiềm năng biển, đồng thời đảm bảo thường xuyên an ninh và chủ quyền biển, đảo.
Biển, đảo nước ta có vị trí chiến lược hết sức to lớn, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, có liên quan trực tiếp đến sự phồn vinh của đất nước và hạnh phúc của nhân dân. Mỗi chúng ta cần quán triệt sâu sắc nội dung về phát triển kinh tế biển trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; phát huy, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về biển đảo trong tình hình mới. Đây là một nội dung rất quan trọng, bởi vai trò của biển, làm chủ biển, bảo vệ và khai thác nguồn lợi từ biển đang là cơ hội, đồng thời là thách thức lớn đối với cả dân tộc Việt Nam. Trong phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với giữ vững chủ quyền biển đảo phải luôn thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp đến thăm bộ đội Hải quân Nhân dân Việt Nam(15/3/1961): “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”.